Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 9 câu hỏi như sau: Lập dàn ý phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
$\text{ Bạn tham khảo nhé!!! }$
$\text{ Lập dàn ý phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác }$
I.MỞ BÀI
-Dẫn dắt
-Giới thiệu tác giả, tác phẩm
-Nêu nội dung chính.
-Trích dẫn thơ.
II.THÂN BÀI
- a) Khổ 1:: Sự xúc động sâu sắc của nhà thơ khi lần đấu tiên nhìn thấy lăng Bác(Trích thơ)
–Lời xưng hô Con => Đại từ nhân xưng dùng trong mối quan hệ ruột thịt => Xưng hô Con –Bác bình dị,mộc mạc mà xiết bao trìu mến thân thương, gói trọn cả tình cảm thiết tha, kính trọng , yêu quý => tình cảm mà nhà thơ dành cho Bác không chỉ là tình cảm của một người dân dành cho vị lãnh tụ mà còn là tình cảm của một đứa con dành cho người cha vô vàn kính yêu của mình và đó cũng là tình cảm của cả dân tộc Việt nam dành cho Bác
– Tác giả không viết ra “viếng” mà nói là ra “Thăm” => Từ thể hiện đúng tâm trạng của tác giả. Chưa bao giờ được gặp Bác, nên với nhà thơ nói riêng và nhân dân miền Nam nói chung, Bác vẫn như còn sống và tác gỉa thay mặt những người con miền Nam ra thủ đô để gặp, thăm hỏi cho thỏa lòng mong nhớ.
– Có lẽ mong chờ giây phút được gặp Bác nên nhà thơ đến lăng Bác từ rất sớm khi vẫn còn sương quanh lăng => Nhìn từ xa nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre bát ngát”=> Hình ảnh tả thực nơi lăng Bác. Đây cũng là hình ảnh gần gũi quen thuộc với tất cả mọi người, là hình ảnh của làng quê Việt Nam =>Tác giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên rồi xúc động thổn thức “Ôi” =>Nơi Bác ở – Nơi của một vị chủ tịch vĩ đại lại thân quen gần gũi biết bao. Nhà thơ có cảm giác như ra Hà Nội thăm Bác mà như đang trở về quê để thăm Cha.
-Hình ảnh hàng tre làm nhà thơ liên tưởng dến con người VN, dân tộc VN.Hình ảnh hàng tre được nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ “Tre xanh xanh VN”=>Hiện thân cho sức sống mãnh liệt, bền bỉ.”Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng” là biểu tượng cho khí phách kiên cường, bất khuất của con người VN, dẫu trải qua bao khắc nghiệt, nguy nan, dân tộc VN vẫn vững vàng vượt qua tất cả=> tác giả cảm thấy tự hào kiêu hãnh và cũng chứa chan xúc động khi thấy dường như Bác đang giữa lòng dân tộc, gần gũi và thân thiết vô cùng.
b)Khổ 2. Niềm tự hào, xúc động của nhà thơ khi đứng trước lăng của chủ tịch Hồ Chí Minh
-Đứng trước lăng Bác nhà thơ nhìn thấy “mặt trời đi qua trên lăng” =>Tả thực mặt trời tự nhiên =>Nhà thơ có một liêng tưởng độc đáo “ mặt trời trong lăng rất đỏ”=> Hình ảnh ẩn dụ => Bác Hồ kính yêu.=> mặt trời trong tự nhiên đem đến ánh sang cho trái đất , đem đến sự sống cho muôn loài thì Bác chính là mặt trời của dân tộc VN đã đem đến ánh sang độc lập tự do cho nhân dân , đem đến sự hồi sinh cho đất nước=> Khẳng định công ơn to lớn vĩ đại của Bác, khẳng định sự bất tử của Bác. Mặt trời trong tự nhiên còn có lúc tắt ,còn ánh sáng tự do mà Bác đem đến cho đất nước ta mãi mãi trường tồn :
Mặt trời lặn, mặt trời mang theo nắng / Bác ra đi để ánh sáng cho đời ( Phạm Tiến Duật)
=> Thể hiện lòng biết ơn, niềm tự hào mà nhà thơ muốn gửi đến Bác.
– (Câu 3): Nhà thơ không dùng từ “đoàn người” mà viết “dòng người”. Chính cách viết đó đã diễn tả cái vô hạn, cái bất tận của những dòng người vào viếng lăng và làm nổi bật lên tình cảm kính yêu tha thiết muôn người dành cho Bác. Từ láy và điệp từ “Ngày ngày ”=> diễn tả một quy luật thời gian : Ngày nào cũng có “dòng người” đến viếng Bác =>Người dân Việt Nam vẫn luôn nhớ thương Bác dù Bác ra đi đã 7 năm => Sự ra đi của Bác là một mất mát không dễ nguôi ngoai. Nhìn dòng người đang kính cẩn đi trong niềm thương nỗi nhớ, nhà thơ liên tưởng mỗi người là một đóa hoa đang kết thành tràng hoa muôn màu, ngào ngạt sắc hương kính dâng lên Bác. *Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” kết hợp với từ dâng đầy biểu cảm đã diễn tả chân thành niềm kính yêu mọi người dành cho lãnh tụ HCM. Nếu như Bác đã làm cho cuộc đời mỗi người được nở hoa thì giờ đây mọi người lại đang dâng lên Bác những bông hoa đẹp nhất của tấm lòng thành kính, tri ân.
– “79 mùa xuân”. Đây lại là một hình ảnh ẩn dụ được dùng để ca ngợi cuộc đời đẹp như huyền thoại của Bác, ca ngợi những cống hiến trọn vẹn của Người dâng cho cuộc đời, đất nước. 79 năm Người đã sống thực sự là 79 mùa xuân đẹp bởi người đã giúp cho đất nước nở hoa, độc lập -> Đây không chỉ là cảm nhận của riêng Viễn Phương mà còn là cảm nhận của triệu triệu người dân Việt Nam- những đứa con luôn hướng về Bác với niềm kính yêu và lòng biết ơn sâu nặng.
c)Khổ 3 : Nối tiếp bài thơ, vẫn với giọng thơ thành kính, trang nghiêm, Viễn Phương đã ghi lại những xúc động mãnh liệt, nỗi đau đớn xót xa của mình trong giây phút được gặp Bác:Trích Khổ 3
-Hình ảnh “ Giấc ngủ bình yên”: Sau bao năm khát khao mong chờ, giờ đây ước nguyện được gặp Bác đã trở thành hiện thực. Thẳm sâu trong trái tim nhà thơ là niềm hạnh phúc vô biên. Nhìn Bác ở trong lăng, nhà thơ có cảm nhận Bác đang ngủ – một giấc ngủ rất bình yên sau bao năm lận đận vì dân vì nước. Không gian nơi Bác yên nghỉ thật nghiêm trang, yên tĩnh và thơ mộng. Bác mất rồi mà nhà thơ lại nói Bác đang “ngủ”- lối nói giảm nói tránh ấy đã thể hiện sâu sắc những mong muốn cháy bỏng của Viễn Phương cũng như cả bao người: ước mong Bác sống mãi với non sông đất nước.
– Hình ảnh “Vầng trăng sáng”: Nhìn bóng điện soi mái đầu, khuôn mặt Bác, nhà thơ có liên tưởng rất đẹp: đó là vầng trăng dịu hiên đang tỏa sáng giữa nới Bác yên nghỉ. => nhà thơ yêu Bác, thấu hiểu Bác biết nhường nào, bởi thế mới hiểu tình cảm Bác dành cho trăng. Suốt cả cuộc đời, Bác luôn coi trăng là người bạn tri âm tri kỉ. Dẫu bị giam cầm mất tự do hay khi đang bận rộn việc quân cơ, Người vẫn có trăng bên cạnh, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn…=> Khi Bác nằm ngủ trong lăng, vầng trăng kia cũng theo Bác vào lăng=> khẳng định sự vĩ đại sánh ngang trời đất của Bác, làm nổi bật trái tim nhân từ, lối sống thanh cao đến thánh thiện, trong sáng cao đẹp đến vô ngần trong tâm hồn Bác.
-Hai câu sau: Ở những dòng thơ trên Bác đã được ví như mặt trời ấm nóng, như mùa xuân bất tận, được sánh ngang vầng trăng trong sáng dịu hiền… Đến đây, Bác lại được gắn với hình ảnh “trời xanh”=> một ẩn dụ đẹp nữa để chỉ Bác, tượng trưng cho sự vĩnh hằng của Bác. Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh bất diệt còn mãi trên đầu. Người đã hóa thân vào hồn thiêng sông núi.
– Nhưng tất cả những cảm nhận trên chỉ là cảm nhận riêng của con tim mà thôi. Vì thiết tha yêu Bác nên lúc nào cũng nghỉ Bác vẫn còn hiện hữu giữa cuộc đời. Và rồi lý trí tỉnh táo đã đưa nhà thơ trở về với thực tại, nhắc nhở 1 sự thật đau lòng , buộc nhà thơ phải đối diện với một sự thật : Bác đã mất. Và trong một khoảnh khắc thôi, niềm hạnh phúc được gặp Bác đã trở thành nỗi bàng hoàng xót xa: “Mà sao…ở trong tim”=> Đến đây lời thơ bỗng nghẹn ngào như tiếng nấc, rưng rưng một niềm đau. Trái tim luôn tự nhủ: Bác vĩnh hằng như bầu trời xanh còn mãi, vì vậy khi giật mình nhận ra sự thật thì nỗi đau bỗng ùa về “nhói trong tim”.Chỉ 1 động từ “nhói” đủ diễn tả sâu sắc nỗi đau đột ngột sâu thẳm tận đáy con tim nhà thơ. Vẫn biết quy luật cuộc đời là có sinh có tử, nhưng nhà thơ vẫn không khỏi xót xa đau đớn khi Bác đã vĩnh viễn đi xa.
d)KHỔ 4: Khổ thơ cuối lại là những nỗi niềm lưu luyến, yêu thương của đứa con hết lòng yêu Bác sau những giây phút gặp gỡ ngắn ngủi lại phải chuẩn bị đi xa.
– Quy luật cuộc đời là có gặp gỡ phải có chia xa.Thông thường những ai xa quê khi sắp trở lại quê nhà sẽ rất vui mừng. Thế nhưng với Viễn Phương trở lại quê nhà Miền Nam là đồng nghĩa với việc phải xa Bác vì vậy nhà thơ mang theo bao nỗi buồn thương da diết. Một tiếng thương ko hề hoa mĩ mà chứa đựng trọn vẹn tình cảm của người miền Nam đối với Bác. “Thương” chính là sự cảm động trước cuộc đời đầy hi sinh và vô cùng vĩ đại của Bác. Hình ảnh “trào nước mắt” thật xúc động đã diễn tả sâu sắc niềm luyến tiếc vô hạn vì phải xa người cha kính yêu mà ko biết đến bao giờ mới được gặp lại. Bao nhiêu tình thương nỗi nhớ, bao nhiêu tâm trạng dồn nén giờ vỡ òa thành nước mắt…
-(3 câu cuối): Cùng với niềm “thương trào nước mắt” ấy, những ao ước khát khao dâng lên đầy ắp tâm trí nhà thơ: “Muốn làm con chim…Muốn làm bông hoa…Muốn làm cây tre…”=> Những ước nguyện được gửi gắm trong hàng loạt những hình ảnh được liệt kê và là những ẩn dụ rất đẹp “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”,”cây tre trung hiếu”. Điệp ngữ “muốn làm” được láy lại 3 lần mỗi đầu mỗi câu thơ vừa gây ấn tượng vừa diễn tả một cách chân thành, tha thiết, mãnh liệt khao khát của nhà thơ. Tác giả muốn hóa thân thành những sự vật gần gũi nơi lăng Bác để ngày ngày được gần bên Bác. Và cuối cùng ước làm một cây tre trung hiếu đứng mãi bên lăng để canh từng giấc ngủ của Người. ->Tất cả những ước muốn hóa thân ấy xuất phát từ ước nguyện muốn được gần bên Bác, từ sự lưu luyến ko muốn rời xa dù chỉ một phút giây. Đó cũng là lời thầm ước được dâng lên Bác những gì tốt đẹp nhất… Đằng sau những khát khao ấy, ta hiểu được nhà thơ yêu Bác đến nhường nào.Mở đầu bài thơ ta đã bắt gặp hình ảnh cây tre, hình ảnh ấy 1 lần nữa được láy lại ở cuối bài góp phần tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ, tương xứng, hài hòa=> Tre” ở đây đã được nhân hóa thật khéo léo, kết hợp hài hòa với cách nói ẩn dụ đã tạo nên 1 hình ảnh ấn tượng, mới lạ “cây tre trung hiếu”. Mượn lối nói ấy, VP muốn gửi gắm 1 lời hứa chân thành như 1 lời thề trước vong linh của Bác: Sẽ suốt đời đi theo con đường mà Bác đã chọn, suốt đời phấn đấu, cống hiến cho đất nước, nhân dân, cho sự nghiệp chung. ->Phải chăng ở bên Bác, VP cũng như tất cả mọi người đều muốn sống có ích hơn, sống đẹp hơn.
III.Kết bài.
$1.$ Nghệ thuật
– Giọng thơ vừa trang trọng, thiết tha sâu lắng vừa tự hào đau xót tiếc thương.
– Hình ảnh thơ vừa gần gũi, quen thuộc, vừa mới mẻ sáng tạo
– Nhiều biện pháp tu từ đặc sắc,giàu sức biểu cảm.
$2.$ Khẳng định Nội dung
Bài thơ thể hiện lòng tự hào, biết ơn và nỗi đau đớn xót xa của nhân dân dành cho Bác- vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
$#Miu$
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
A, MB
– giới thiệu tác giả Viễn Phương: Nhà thơ Viễn Phương có tên thật là Phan Thanh Viễn. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: “Anh hùng mìn gạt”, “Như mây mùa xuân”, “Lòng mẹ”,… Ở những bài thơ của Viễn Phương, người đọc thấy được phong cách thơ giàu cảm xúc nhưng không bi lụy mà mang chút nền nã, thì thầm, bâng khuâng.
– Bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác vào tháng 4 năm 1976. Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành. Viễn phương ra Bắc thăm Bác, nhà thơ đã viết bài thơ này và được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
– Có ý kiến cho rằng “Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và sự xúc động sâu sắc của nhà thơ khi vào viếng lăng Bác”. Em hoàn toàn đồng ý với ý kiến này
B, TB
1, Khổ 1: sự xúc động trong hoàn cảnh ra thăm viếng lăng Bác.
nhà thơ đã có những dòng thơ xúc động về hoàn cảnh ra viếng thăm vị cha già kính yêu của dân tộc:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ bộc bạch hoàn cảnh ra viếng lăng Bác của một người con miền Nam “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô “con-Bác” cho thấy sự gần gũi và kính trọng như của một người con đối với một người cha vĩ đại. Cách xưng hô này làm em liên tưởng đến những dòng thơ “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha”. Đối với mỗi người dân miền Nam nói riêng và VN nói chung thì Bác Hồ chính là vị cha già bao dung ôm cả đất nước vào lòng. Nay nhà thơ ra miền Bắc thăm lăng Bác và tác giả dùng từ “thăm” thay vì “viếng” như một cách nói giảm nói tránh. Người đọc có cảm giác giống như một buổi đi thăm người thân, mà ở đây là một người con miền Nam đi thăm vị cha già kính yêu của mình. Câu thơ thứ ba là một câu cảm thán của tác giả “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Câu thơ như một tiếng reo hân hoan và niềm tự hào về biểu tượng của dân tộc và con người VN: tre VN trồng quanh lăng Bác. Tre VN là hình ảnh ẩn dụ của con người VN qua bao thế hệ với phẩm chất “Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”. Bão táp mưa sa chính là ẩn dụ của những năm tháng khó khăn, vất vả lam lũ của người dân VN. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, con người VN vẫn chính là những cây tre quật cường, anh dũng, nhân hậu với những phẩm chất tốt đẹp và tre xanh VN cũng giống như vậy. Tóm lại, khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác là những dòng thơ hết sức xúc động về hoàn cảnh đi viếng lăng của nhà thơ.
2, Khổ 2: sự xúc động khi hòa vào dòng người viếng lăng Bác
nhà thơ đã có những dòng thơ vô cùng xúc động về cảm xúc của mình khi hòa vào dòng người đi vào viếng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” là câu sử dụng hình ảnh ẩn dụ vô cùng đặc sắc. Hình ảnh “mặt trời” đầu tiên là hình ảnh của mặt trời tả thực của vũ trụ còn hình ảnh “mặt trời” thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ của Bác. Nhờ có hình ảnh ẩn dụ này, tác giả đã nhấn mạnh được tầm quan trọng và sự vĩ đại, bất tử như vũ trụ của Người. Nếu như mặt trời quan trọng với sinh vật trên trái đất thì Bác Hồ chính là vầng thái dương không bao giờ tắt, mang đến ánh sáng và hy vọng cho dân tộc VN vượt khỏi ách nô lệ và lầm than. Hai câu thơ tiếp theo là hình ảnh của đoàn người vào thăm viếng Hồ Chủ tịch. Hai từ “thương nhớ” đã bộc lộ sự tiếc thương và kính yêu của nhân dân đối với Bác đến muôn đời. Điệp ngữ “Ngày ngày” đã cho thấy một sự lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác của dòng người vào lăng viếng Bác cũng như sự tuần hoàn của vũ trụ. ngày ngày, thời gian vẫn trôi đi, vũ trụ vẫn chuyển động, nhân dân vẫn thương nhớ và Bác thì đã đi vào giấc ngủ vĩnh hằng mãi mãi. Tiếp theo hình ảnh “bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh vô cùng đặc sắc thể hiện sự kính yêu của nhân dân đối với Bác. Hình ảnh “tràng hoa” không chỉ thay thể được “vòng hoa” (gợi sự buồn thương) mà còn nhấn mạnh được tình yêu và sự kính trọng Bác của nhân dân VN. Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” có ý nghĩa là trng 79 năm Bác sống và làm việc, Người đã đem đến 79 mùa xuân tươi đẹp của đất nước. Bác luôn sống và bất tử trong trái tim của nhân dân VN.
3, Khổ 3: sự xúc động, kính yêu khi ở trong lăng Bác
nhà thơ Viễn Phương đã có những câu thơ vô cùng xúc động và đong đầy tình cảm khi vào trong lăng. Thật vậy, đó là hai khổ thơ 3 trong bài:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Câu thơ “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên” gợi ra một khung cảnh bình yên mà vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc đã đi sâu vào giấc ngủ vĩnh hằng cùng trời đất. Cách nói giảm nói tránh của tác giả giúp cho người đọc cảm nhận được sự bình yên và bất tử cùng trời đất của Bác thay vì cái chết. Bác đã mãi mãi đi vào giấc ngủ bình yên, đi vào trời đất và tư tưởng của Người vẫn luôn làm ngọn đèn soi đường chỉ lối cho phương hướng của dân tộc VN. Hình ảnh “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” có hai cách hiểu. Một là hình ảnh tả thực cho ánh sáng bên trong lăng, hai là tác giả muốn biểu thị sự vĩnh hằng của Bác khi Bác ra đi và vẫn luôn đồng hành cùng với trời đất, những hình tượng thiên nhiên bất diệt như “trăng”. Từ “dịu hiền” là một tính từ gợi khung cảnh bình yên trong lăng và tình cảm chân thành của nhà thơ khi chứng kiến khung cảnh trong lăng. Hình ảnh “trời xanh là mãi mãi” ở câu thơ thứ 3 gợi ra sự bất tử mãi mãi của Bác cùng với thiên nhiên, vũ trụ. Khi miêu tả Bác, nhà thơ sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bất tử như “vầng trăng, trời xanh” để nói về Người cùng với tất cả sự kính yêu, thương nhớ. Tiếp theo, câu thơ “Mà sao nghe nhói ở trong tim!” như một lời cảm thán tiếc nuối, đau lòng của nhà thơ đối với sự ra đi của Bác. Dù nhà thơ đã tự nhủ rằng Bác vẫn luôn tồn tại cùng trời đất, cùng dân tộc nhưng sự ra đi của Bác vẫn là sự mất mát vô cùng lớn đối với người dân, giống như sự ra đi của một người cha vĩ đại trong gia đình dân tộc VN vậy. Tóm lại, khổ thơ thứ ba đã thể hiện được những cảm xúc kính yêu của nhà thơ đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
4, Khổ 4: sự lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ trước khi rời lăng Bác
Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc lưu luyến, bịn rịn đối với Bác. Thật vậy, nếu như những dòng thơ trên là nỗi đau buồn, thương nhớ của 1 người con miền Nam đối với Hồ Chủ tịch vĩ đại thì khổ thơ cuối đã thể hiện sự lưu luyến ko muốn rời xa đối với Bác:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
….
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Cụm từ “thương trào nước mắt” thể hiện một nỗi buồn thương mãi mãi khôn nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ như tâm trạng của 1 người con sắp phải xa cha, đau buồn vô cùng. Tiếp theo, tác giả dùng điệp ngữ “muốn làm” để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ bé nhỏ để được mãi ở bên Bác. Những hình ảnh bình dị như “con chim hót, đóa hoa tỏa hương” thể hiện được sự khát khao công hiến, muốn được dâng hiến cho Bác. Chao ôi, đây là một ước mơ vô cùng bình dị mà lớn lao của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre trung hiếu dường như là hình ảnh của người dân VN với những phẩm chất bình dị, kiên cường, trung hiếu. Dường như, tác giả khao khát được hóa thân vào những thứ bình dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc VN. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, bình dị mà cao đẹp, đó là tâm trạng của 1 người con trước vị cha già kính yêu của dân tộc.
C, KB
Tóm lại, bài thơ là tình cảm kính yêu vô bờ, cùng sự quyến luyến của nhà thơ Viễn Phương nói riêng cũng như toàn thể nhân dân miền Nam nói chung dành cho Bác.