Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 9 câu hỏi như sau: Cảm nhận của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của tác giả Viễn Phương.
Chi tiết giúp em với ạ. Em sẽ chọn câu trả lời hay nhất! Cảm ơn ạ.
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
“Viếng lăng Bác” là dòng cảm xúc tuôn trào của Viễn Phương qua ba thời điểm: trước khi vào viếng lăng Bác, khi vào viếng lăng Bác và trước lúc trở về miền Nam thân yêu. Với bốn khổ thơ mang theo nhiều cảm xúc ở ba thời điểm, bài thơ xứng đáng là đóa hoa thắm tươi dâng lên Bác.
Trước khi vào viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã rất ấn tượng với hình ảnh hàng tre bên ngoài:
”Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Trước lăng Bác, hiện lên mờ ảo trong làn sương là hàng tre Việt Nam. Hình ảnh hàng tre biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ bao đời nay, nhắc đến tre, người ta lại nghĩ đến những đức tính cần cù, siêng năng, đoàn kết… của người Việt Nam. Ở khổ thơ trên, tre biểu tượng cho sự kiên trì, bền bỉ, hiên ngang, dũng cảm:
“Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Mượn hình ảnh hàng tre, tác giả còn muốn nhấn mạnh những phẩm chất tốt đẹp, công lao vĩ đại của Bác. Bác đã vượt qua khó khăn, hi sinh thanh xuân cho những tháng ngày hòa bình của dân tộc. Chắc hẳn vì vậy mà trong tiềm thức của Viễn Phương, Bác vẫn sống. Tác giả dùng từ “thăm” nghĩa là đi gặp một người còn sống. Song từ “viếng” ở nhan đề bài thơ lại là đi điếu một người đã mất, thường với thái độ buồn bã, tiếc thương. Ở khổ thơ đầu, tác giả dùng biện pháp nói giảm nói tránh để giảm nhẹ nỗi đau thương của mình trước sự ra đi của Bác. Ông tự an ủi lòng mình, cũng là an ủi lòng người đọc.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ bộc lộ lòng biết ơn của ông nói riêng và của nhân dân miền Nam nói chung với Bác lúc đứng trước lăng của Người:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày tràng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Giọng thơ ngân lên thật thiết tha, lắng đọng, pha chút tiếc nuối, đau thương. Nó hòa vào lòng biết ơn và thương tiếc của dân tộc. Bằng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”, tác giả đã khắc sâu và ghi nhớ công ơn của Bác trong lòng mình và thế hệ bạn đọc. Mặt trời là thiên thể trong vũ trụ, mang lại sự sống cho muôn loài cũng như Bác Hồ đã mang đến cuộc sống tự do, hạnh phúc cho muôn dân. Mặt trời to lớn đến đâu thì Bác của ta vĩ đại đến đấy. Ở hai câu thơ cuối, dòng cảm xúc như bị dồn nén lại. Thời gian tuần hoàn qua điệp ngữ “ngày ngày”, có thêm hơi ấm và sự thành kính của con người. Tràng hoa dâng lên Bác ở đây có thể hình ảnh hiện thực của dòng người viếng lăng cũng có thể là biểu trưng của lòng kính yêu, ngưỡng vọng của toàn dân đối với Bác Hồ. Cuộc đời cũng hiện lên thật đẹp. Với Viễn Phương, cuộc đời Bác là sự hội tụ của bảy mươi chín mùa xuân, thể hiện qua hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”. Với ta, đó cũng là bảy mươi chín mùa xuân của dân tộc. Khổ thơ thứ hai đi qua với nỗi lòng thương tiếc và biết ơn của bao con người.
Sang khổ thơ thứ ba, dòng cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng Bác được bộc lộ chân thành:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Nhà thơ nhận định rằng Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”, rằng Bác chưa mất. Điều đó đã được tác giả khẳng định ở từ “thăm” trong khổ thơ đầu. Sang khổ thơ này, xuất hiện thêm hình ảnh “vầng trăng sáng”. Đây có thể là hình ảnh thực của ánh đèn trong lăng song còn gợi ra sức liên tưởng khá cao. HÌnh ảnh vầng trăng tượng trưng cho tâm hồn cao quý, thanh khiết, tinh túy của Bác Hồ. Mặt khác, nhà thơ còn gợi ra những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác. Như Hoài Thanh đã nói “Thơ Bác đầy trăng”, có vô vàn bài thơ của Bác có sự hiện diện của vầng trăng sáng:
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
(Vọng nguyệt)
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lòng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya)
Viễn Phương ca ngợi tâm hồn và thơ ca của Bác. Dù Bác không xem mình là nhà thơ nhưng ta thực sự xem Bác là một đại thi hào.
Bác sống trong tiềm thức của mỗi người. Song sự thật là Bác đã không còn trên trần đời. Thương tiếc như thế, Viễn Phương đã không kìm được cảm xúc:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” ở đây có thể là tượng trưng của Bác. Viễn Phương biết rằng Bác sống mãi với non sông gấm vóc, sống mãi trong lòng dân tộc như bầu trời là mãi mãi nhưng vẫn đau xót trước sự mất mát quá lớn. Dẫu biết chuyện sinh tử là lẽ thường, nhà thơ vẫn đau thương vì người cha già của dân tộc đã hóa khiếp thiên thu. Dù thế nào thì hiện thực là Bác cũng không còn nữa, tác giả xúc động đến mức nghe được con tim nhói đau. Từ cảm giác đau xót vô hình, nhà thơ chuyển tải nó thành âm thanh của tiếng “nhói”: Câu thơ cuối nghe thật đau thương. Nó nói đúng tâm trạng, tình cảm của mỗi người con Việt Nam đối với Bác lúc ấy.
Bước ra khỏi lăng Bác, hình như tình cảm dành cho Bác vẫn cứ tuôn trào vô tận, Viễn Phương lại bộc lộ nguyện ước chân thành của mình:
“Mai về miền Nam thương trào nước ta
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Nhà thơ lưu luyến, muốn ở mãi bên Bác. Từ dòng cảm xúc trực tiếp “thương trào nước mắt”, nhà thơ từng bước thể hiện ước nguyện của mình qua ba điệp ngữ “Muốn làm”. Tác giả muốn làm con chim, đóa hoa là mong muốn dâng hiến đời mình cho Bác. Đây là ước mong đền ơn Bác đầu tiên, nhà thơ như muốn canh cho giấc ngủ ngàn thu của Người. Đặc biệt, nhà thơ muốn làm cây tre trung hiếu với Bác. Đây là ước mong dâng hiến tâm hồn cho Bác. Vì tre thường là biểu trưng của phẩm chất, đạo đức tốt đẹp. Hình ảnh “cây tre” lặp lại với khổ thơ đầu tiên, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, cũng là hoàn thiện phẩm chất của con người Việt Nam: kiên trì, dũng cảm, nhân ái và trung hiếu. Kiểu câu rút gọn lược bớt chủ ngữ “Muốn làm” được sử dụng khéo léo và linh hoạt, đưa ước nguyện riêng tư của nhà thơ thành ước nguyện chung nhất của dân tộc Việt. Qua nguyện ước của mình, tác giả nói lên mong ước được đền ơn Bác. Điều đó cho ta thấy nguyện ước của ông thật chân thành và ý nghĩa. Đó còn là tiếng lòng của nhân dân Việt Nam thương nhớ Bác.
Bằng giọng thơ trang trọng, tha thiết và nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm kết hợp các phép tu từ quen thuộc (điệp ngữ, nói giảm nói tránh…); bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Bài thơ là tiếng lòng của tác giả cũng như bao người đọc. Bác hiện lên thật đẹp, thật vĩ đại xuyên suốt bài thơ. Sự thương tiếc, ngưỡng vọng của tác giả nói riêng và của nhân dân nói chung đối với Bác Hồ kính yêu là mãi mãi, như lời thơ của Tố Hữu:
“Vì sao Trái Đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người: Hồ Chí Minh?”
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
1. Giới thiệu chung
Tác giả:
– Viễn Phương là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam.
– Thơ Viễn Phương tập trung khám phá ngợi ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.
– Lối viết của ông nhỏ nhẹ, trong sáng, giàu cảm xúc và lãng mạn.
Tác phẩm:
– Năm 1976, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương là một trong số những chiến sĩ, đồng bào miền Nam sớm được ra viếng Bác. Bài thơ ghi lại những ấn tượng, cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ trong cuộc viếng lăng.
– In trong tập “Như mây mùa xuân” – 1978.
– Hai khổ thơ đầu cho thấy tình cảm thành kính và xúc động của Viễn Phương khi đến viếng lăng Bác.
2. Phân tích
Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác:
– Đầu tiên là sự bồi hồi, xúc động “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
+ Cặp đại từ xưng hô “con – Bác” là cách xưng hô gần gũi, thân thiết của người miền Nam, vừa thể hiện sự tôn kính với Bác vừa bộc lộ tình cảm yêu thương dành cho một người ruột thịt, một người bề trên trong gia đình. Đọc câu thơ tưởng như Viễn Phương là một người con xa xứ nay mới được trở về bên người cha của mình.
+ Cách nói giảm nói tránh “thăm” làm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát, đồng thời khẳng định sự bất tử của Người trong lòng những người con nước Việt.
=> Câu thơ giản dị như một lời kể nhưng lại thấm đượm bao nỗi bồi hồi, xúc động của nhà thơ, sau bao mong nhớ, đợi chờ, nay mới được đến viếng lăng Bác.
– Ấn tượng đậm nét hiện lên trước mắt nhà thơ: “hàng tre bát ngát”:
+ Đây là hình ảnh thực làm nên quang cảnh đẹp cho lăng Bác, mang lại cảm giác thân thuộc, gần gũi của làng quê, đất nước Việt.
+ Đấy cũng là hình ảnh chưa nhiều sức gợi: “hàng tre xanh xanh” gợi vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam với sức sống tràn trề; “bão táp…thẳng hàng” là vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam. Hình ảnh hàng tre bao quanh lăng là biểu tượng của cả dân tộc đang quây quần bên Người, thể hiện tình cảm của người dân miền Nam nói riêng, con người VN nói chung dành cho Bác.
=> Khổ 1 là niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước lăng Người.
Những cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác:
– Đứng trước lăng Bác là nỗi tiếc thương, lòng biết ơn sâu nặng dành cho công lao của Bác.
+ Sáng tạo hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi: mặt trời trên lăng – mặt trời tự nhiên, mặt trời trong lăng – ẩn dụ cho Bác. Bác đã mang lại ánh sáng chân lí, giúp dân tộc thoát khỏi kiếp sống nô lệ, khổ đau. Hình ảnh ẩn dụ đã vừa khẳng định, ngợi ca sự vĩ đại của Người vừa thể hiện tình cảm tôn kính, biết ơn của cả dân tộc đối với Người.
+ Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày” gợi dòng thời gian vô tận và sự sống vĩnh cửu; mang giá trị tạo hình, vẽ lên quang cảnh những đoàn người nối tiếp nhau không dứt, lặng lẽ và thành kính vào viếng Bác. Lối nói “đi trong thương nhớ” thể hiện nỗi tiếc thương, nhớ nhung lớn lao của bao thế hệ người dân Việt Nam trong giây phút vào lăng viếng Bác.
+ “Tràng hoa dâng 79 mùa xuân”: 79 năm cuộc đời Người đã hiến dâng trọn vẹn cho quê hương, đất nước. Nó được kết từ hàng ngàn, hàng vạn trái tim để bày tỏ niềm tiếc thương, kính yêu vị cha già dân tộc. Đó cũng là cách để nhà thơ khẳng định Bác sống mãi trong lòng dân tộc.
=> Khổ thơ thể hiện lòng thành kính, niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ với Bác.
Tâm trạng của nhà thơ khi vào trong lăng
* Hai câu thơ đầu:
– Viễn Phương đã sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt không khí đau thương. Bác đang nằm đó nhẹ nhàng, thanh thản như đang chìm vào một giấc ngủ ngon.
– Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”:
+ Hình ảnh tả thực: ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của những ngọn đèn nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.
+ Hình ảnh vầng trăng: gợi cho ta nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng, thanh cao của Bác. Và trăng còn là một người bạn tri âm, tri kỉ với Bác lúc sinh thời.
* Hai câu thơ tiếp theo:
– Trời xanh: hình ảnh ẩn dụ -> khẳng định sự trường tồn của Bác, Bác đã hóa thân vào non sông đất nước
– “Nhói”: diễn tả tình cảm chân thành, đau xót đến tột cùng, cùng sự tiếc nuối khôn nguôi của nhà thơ về sự ra đi của Bác.
=> Nhà thơ đau xót trước sự thực Bác đã ra đi
Tâm trạng của nhà thơ khi rời xa lăng
– Thương trào nước mắt: Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào
– Ước nguyện của nhà thơ:
+ Muốn làm con chim -> để dâng tiếng hót
+ Muốn làm đóa hoa -> dâng hương sắc
+ Muốn làm cây tre -> trung hiếu
-> Điệp từ “muốn làm” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ.
-> Đó là những ước muốn giản dị, bé nhỏ nhưng mãnh liệt thể hiện cảm xúc bâng khuâng, xốn xang lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ không muốn rời xa Bác, muốn hóa thân vào thiên nhiên để được gần Bác
-> Tình cảm thiêng liêng của dân tộc Việt Nam đối với Bác
– Hình ảnh cây tre lặp lại ở khổ thơ cuối tạo ra kết cuối đầu cuối tương ứng. Cây tre là biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc => khẳng định sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.
* Những điều cần làm để xứng đáng với công lao của Bác
– Là học sinh cần phải cố gắng học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để trở thành một công dân tốt, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
3.Tổng kết
-Nội dung:
+ Thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết của cả dân tộc Việt Nam dành cho Bác.
+ Qua đó, khám phá, ngợi ca truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc ta.
-Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ giản dị, gần gũi, giàu sức gợi.
+ Giọng điệu vừa chân thành, trang nghiêm, vừa sâu lắng vừa tha thiết, đau xót tự hào.
+ Hình ảnh thơ vừa mang nghĩa thực vừa giàu giá trị tượng trưng.
Chúc bạn học tốt nhé !