Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 7 câu hỏi như sau: Soạn Ngữ Văn lớp 7 bài 29 Quan Âm Thị Kính giúp tớ với nhé Tớ đang cần gấp ngay bây giờ
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
Câu 1 + 2 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Học sinh tự đọc
Câu 3 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật : Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Tuy nhiên nhân vật chính thể hiện xung đột kịch chỉ có Thị Kính và Sùng bà.
Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác đại diện tầng lớp địa chủ phong kiến. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính đại diện cho người phụ nữ lao động, dân thường.
Câu 4 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh sinh hoạt gia đình đầm ấm. Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy nhân vật này là một người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng, chân thật và tự nhiên.
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Hành động của Sùng bà : dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, …
→ Những hành động tàn nhẫn và thô bạo.
– Ngôn ngữ của Sùng bà với Thị Kính : đay nghiến, mắng nhiếc thậm tệ. Trong lời mắng chửi luôn mang nặng tư tưởng khác biệt giai cấp, “môn đăng hộ đối” :
+ Giống phượng giống công.
+ Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ.
+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc.
+ Mày là con nhà cua ốc.
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Đoạn trích có năm lần Thị Kính kêu oan với bốn lần lời kêu oan hướng về chồng và mẹ chồng nhưng chẳng nhận được sự cảm thông. Chỉ đến lần kêu oan thứ năm-lần kêu oan với cha ruột Mãng ông thì tiếng oan mới nhận được cảm thông, tuy rằng đó là lời thở than đau khổ và bất lực.
Câu 7 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm việc tàn nhẫn :
– Lừa Mãng ông sang cữ cháu ngoại, kì thực là bắt Mãng ông sang nhận con gái về.
– Khi Mãng ông đang hoang mang chưa rõ chuyện, Sùng ông còn giúi ngã Mãng ông một cách thô bạo.
* Xung đột kịch cao nhất ở cảnh Mãng ông bị giúi ngã. Thị Kính chạy lại đỡ cha hai cha con ôm nhau than khóc, Thị Kính bị đẩy lên tột cùng nỗi đau : oan ức, tan vỡ gia đình mà còn liên lụy cha bị khinh bỉ, hành hạ.
Câu 8 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà :
+ Lưu luyến, đau khổ khi phải xa chồng, khi chịu oan ức.
+ Ngậm ngùi xót xa cho duyên phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của mình.
– Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa như một con đường giải thoát :
+ Tích cực : phải tiếp tục sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính.
+ Tiêu cực : cho rằng mình khổ do số kiếp nên tìm đến cửa Phật. Đó chỉ là hành động cam chịu chứ không phải đấu tranh.
Luyện tập
Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Tóm tắt trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” :
Thị Kính (con nhà nông dân nghèo) bị mẹ chồng (Sùng bà), Sùng ông, chồng kết tội giết chồng chỉ vì Thị Kính dùng chiếc dao khâu có ý xén chiếc râu mọc ngược trên cằm chồng. Nỗi oan thống không được giải, Thị Kính bị đuổi và quyết định “trá hình nam tử bước đi tu hành”.
Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Chủ đề đoạn trích : những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp qua xung đột gia đình, hôn nhân.
– Thành ngữ “Oan Thị Kính” :
+ Nỗi oan những người phụ nữ đoan chính.
+ Nỗi oan quá lớn, không có cách nào giãi bày, cũng không có sự cảm thông.
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
Trong sgk.
Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
Trong sgk.
Câu 3 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Đoạn trích có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.
– Nhân vật chính thể hiện xung đột là Sùng bà và Thị Kính.
– Sùng bà thuộc loại nhân vật “mụ ác”, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến
– Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính”, đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Hành động Sùng bà tàn nhẫn, thô bạo: “dúi đầu Thị Kính xuống”, “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”, “không cho Thị Kính phân bua”, “dúi tay đẩy Thị Kính khụy xuống”.
– Ngôn ngữ của Sùng bà toàn những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả:
+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Tuồng bay mèo mả gà đồng.
+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc.
+ Trứng rồng lại nở ra rồng – Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Thị Kính 5 lần kêu oan trong đó có bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng, lần cuối cùng hướng về Mãng Ông,
– Lần kêu oan thứ năm, lần cuối là kêu với Mãng ông (cha đẻ) Thị Kính mới nhận được sự thông cảm nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực.
Câu 7 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Sùng bà và sùng ông dựng lên một vở kịch:
+ Lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã.
+ Dúi ngã Mãng ông để cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà
– Đây là lúc xung đột kịch lên cao nhất: Thị Kính thì bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha bị hành hạ, khinh bỉ
Câu 8 (trang 120 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Tâm trạng của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà Sùng bà: đau đớn, bơ vơ
– Việc Thị Kính đi tu có ý nghĩa: Là lời khẳng định sự đoan chính của Thị Kính, đồng thời cho thấy sự bế tắc không lối thoát của nàng
– Vào chùa không phải sự giải thoát vì nàng chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh, cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục.
Luyện Tập
Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
Mãng Ông có con gái là Thị Kính đến tuổi lấy chồng thì được gả cho Thiện Sĩ, dòng dõi thi thư. Ở nhà Thiện Sĩ chăm chỉ học bài, Thị Kính bên cạnh miệt mài vá may. Đến đêm khi chồng ngủ, nhìn cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, Thị Kính toan dùng dao bén để xén nó đi. Bất ngờ Thiện Sĩ tỉnh dậy hét toáng lên. Mẹ con Thiện Sĩ tưởng nàng giết chồng, bèn mắng chửi và đuổi về. Mặc cho Thị Kính hết lời van xin, Sùng ông gọi Mãng ông sang để đuổi Thị Kính về. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào trong nhà để mặc hai bố con ôm nhau khóc rồi đi về.
Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):
– Chủ đề đoạn trích: Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, đồng cảm, xót thương cho nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ, phê phán sự đối lập giai cấp tròn xã hội phong kiến.