Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 12 câu hỏi như sau: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau : ” những người vợ nhớ chồng …hoá núi sông ta” đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm , từ đó nhận xét về giọng thơ trữ tình chính luận của Nguyễn khoa Điềm
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
em cảm thấy rất hay và em thấy tác giả viết giọng thơ chữ tình chính luận đó rất có nét đặc sắc di sâu vào lòng người
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
I, MB: Đất nước- hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta- vừa cao cả, tang trọng, ừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ của Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua đoạn trích ‘Đất nước” ( Trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. Và đây là mộ trong những đoạn trích tiêu biểu:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
II, TB
1, Khái quát chung
– HCST: Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Đó là thời điểm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang trải qua những năm tháng đầy thử thách, khốc liệt. Tác giả đã thể hiện sâu sắc sự thức tỉnh của tuổi trẻ các vùng bị tạm chiến miền Nam, nhận rõ bộ măt xâm lược của kẻ thù, huớg về nhân dân, sẵn sàng và tự nguyện gánh vác sứ mệnh đấu tranh giải phóng dân tộc.
– Trường ca gồm 9 chương, đoạn trích “Đất nước” là phần đầu chương V.
– Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ về Đất Nước : Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân . Nhân dân là người làm ra Đất Nước.
2, Phân tích
+ Tình nghĩa thuỷ chung thấm thiết (núi Vọng Phu, hòn Trống Mái)
+ Chiến đấu bảo vệ Đất Nước (Chuyện Thánh Gióng)
+ Cội nguồn thiêng liêng (hướng về đất Tổ Hùng Vương)
+ Truyền thống hiếu học (cảm nhận về núi Bút non nghiên)
+ Hình ảnh đất nước tươi đẹp (Cách nhìn dân dã về núi con Cóc, con Gà , dòng sông)
+ Những cuộc di dân khai phá đất nước (những người dân nào) Từ thủa mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất ThăngLong.
– Đoạn thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ của NKĐ về không gian đất nước cũng như các danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền tổ quốc. Cái nhìn này không chỉ thể hiện sự ngợi ca vẻ đẹp của non sông mà tác giả còn muốn nói tới điều sâu xa hơn đó là sự hoá thân của nhân dân vào hình tượng Đất Nước.
– Mỗi câu thơ đều phản ánh những giá trị văn hoá kết tinh ĐS dân tộc từ trong ngàn năm lịch sử. Những danh thắng trên khắp mọi miền tổ quốc: hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, …không đơn thuần là tạo hoá ban tặng mà đó là sự hoá thân của các thế hệ nhân dân vào hình tượng Đất Nước. Nói cách khác chính nhân dân đã định danh cho các sự vật hiện tượng bằng tâm hồn, tư tưởng của mình…Chính nhân dân đã tạo nên ý nghĩa thiêng liêng cho ĐN của mình, chính họ đã hoá thân vào ĐN của mình.
=>Những câu thơ tự do uyển chuyển linh hoạt, giàu chất tạo hình đã mở ra chiều sâu văn hoá . Nhờ sự sử dụng những chất liệu dân gian mà nhà thơ đã tạo ra một không khí vừa gần gũi, vừa thành kính trang nghiêm thiêng liêng. Đó chính là cầu nối giữa quá khứ với thời đại mới…
* Nhận xét: Chất trữ tình kết hợp chất chính luận là đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ đề cập những vấn đề lớn của đất nước, kêu gọi lòng yêu nước của thế hệ trẻ trong kháng chiến chông Mỹ, đồng thời thể hiện lòng yêu nước, tự hào về truyền thống đất nước của tác giả.
3. Đánh giá chung :
a, Nội dung:
a. Nội dung: Sự phát hiện thú vị và độc đáo của tg về ĐN trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá với nhiều ý nghĩa mới : Muôn vàn vẻ đẹp của ĐN đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân , của những con người vô danh , bình dị .
b. Nghệ thuật :
– Thể thơ tự do phóng túng .
– Sử dụng chất liệu văn hoá dân gian.
– Giọng thơ trữ tình – chính luận.
III, KB: Khẳng định lại vấn đề
* Bài viết tham khảo
Đất nước- hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta- vừa cao cả, tang trọng, ừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ của Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua đoạn trích ‘Đất nước” ( Trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. Và đây là mộ trong những đoạn trích tiêu biểu:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng năm in góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hà Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùngvĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con ugười Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quí, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấy
Nhũng cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái,sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và nguyễn khoa điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trính phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước (Nguyễn Đình Thi), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh),… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng:
Để Đất Nước là Đất Nước của nhân dân.
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dâ dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”.
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đừng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân.