Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 11 câu hỏi như sau: em đã từng có cảm xúc như rômeo và giuliet chưa? nếu ở trong cảnh ngộ như họ thì em sẽ làm gì. giúp mình với ạ
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
Đoạn trích có mười sáu lời thoại, trong sáu lời thoại đầu, hai nhân vật không đối thoại với nhau dù có nhắc đến tên nhau trong lời thoại.
– Sáu lời thoại đầu là những độc thoại mà các nhân vật nói về nhau, là “tiếng lòng” của nhân vật nên là các độc thoại nội tâm.
– Vì là lời độc thoại nội tâm nên sáu lời thoại đầu chứa đựng cảm xúc yêu thương chân thành, đằm thắm. Ngôn từ mượt mà cùng cách nói ví von, so sánh rất phù hợp với tâm trạng phấn chấn, rạo rực xen lẫn những bồn chồn, mong nhớ của người đang yêu.
– Trong những lời thoại của Rô-mê-ô, có lúc như đang nói với Giu-li-ét khi nàng xuất hiện bên cửa sổ “Vầng dương đẹp tươi ơi…”; “Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi…”, lúc như đang đối thoại với chính mình “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ?”.
– Mười lời thoại còn lại mang hình thức đối thoại, các lời thoại hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe, xuất hiện tính chất hỏi đáp, đối đáp.
2. Những cụm từ chứng minh tình yêu của hai nhân vật chính.
– Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét như “Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi…”, “chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi” và trong lời thoại của Rô-mê-ô “Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên tôi…”; “chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu…”.
– Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ khiến Giu-li-ét lo lắng cho tình yêu, còn Rô-mê-ô thì sẵn sàng từ bỏ dòng họ để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét “ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu”.
– Cả hai đều ý thức được sự thù hận và nỗi lo chung của hai người là không được yêu nhau, không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, dù cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên, bất chấp hận thù.
3. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nam chính trong lời thoại đầu tiên.
– Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng, thiên nhiên hòa cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không sáng ngời soi rọi mọi cái mà mờ ảo, đóng vai trò trang trí cho cảnh gặp gỡ tình tứ của đôi tình nhân.
– Trong khung cảnh đêm khuya, trăng trở thành đối tượng để Rô-mê-ô so sánh với vẻ đẹp của Giu-li-ét. Trong mắt Rô-mê-ô, nàng như “vầng dương” lúc bình minh; sự xuất hiện của “vầng dương” khiến “ả Hằng Nga” trở nên “héo hon”, ‘nhợt nhạt”. Mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô là tâm lí của người đang khát khao yêu đương nên so sánh có chút cường điệu vẫn phù hợp.
– Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ?”, chắc “cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tưng bừng…”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên làm dấy lên khao khát yêu đương mãnh liệt “Kìa! Nàng tì má lên bàn tay! Ước gì ta là chiếc bao tay để mơn trớn đôi gò má ấy!”.
– Những cảm xúc được thể hiện qua những hình ảnh so sánh lãng mạn của Rô-mê-ô biểu hiện cảm xúc của một người đang yêu và được yêu. Đây là một tình yêu chân thành, không vụ lợi và hồn nhiên trong trắng.
4. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nữ chính.
– Cảnh trong đoạn trích xảy ra sau khi Rô-mê-ô và Giu-li-ét gặp gỡ nhau trong lễ hội hóa trang (cuộc gặp gỡ đã làm nảy sinh tình yêu của họ). Trong cuộc gặp gỡ đó, chính Rô-mê-ô đã thốt lên “Nàng là họ Ca-piu-lét sao? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nay nằm trong tay người thù” và Giu-li-ét cũng đã nhận thức được điều đó. Cả hai đều đã nhận thức được tình cảnh oái oăm, hoàn cảnh thù địch mà họ bị đặt vào.
– Sự nhận thức đó dẫn đến lời độc thoại băn khoăn day dứt, sự dằn vặt thể hiện tâm trạng rối bời trước hoàn cảnh éo le của Giu-li-ét “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…”.
Các lời thoại của Giu-li-ét thể hiện một tình cảm mãnh liệt, đồng thời cũng hàm chứa lo âu, bởi hận thù giữa hai dòng họ và bởi không biết Rô-mê-ô có yêu mình chân thành hay không.
– Các lời thoại của Giu-li-ét cũng là sự thổ lộ tình yêu trực tiếp, không ngại ngùng, không phải thổ lộ trực tiếp với Rô-mê-ô mà để nói với chính mình. Giu-li-ét không biết người yêu đang đứng nấp gần đấy.
Cách đặt vấn để của Giu-li-ét rất hồn nhiên, tha thiết và trong trắng. Nàng tự đề xuất các giải pháp “Chàng hãy từ bỏ tên họ đi” hoặc “Cái tên kia đâu có phải là xương thịt của chàng, chàng hãy đổi nó lấy cả tấm thân em”.
– Giu-li-ét bất ngờ khi biết có người đang nhìn mình, đang nghe mình thổ lộ. Sự bất ngờ của Giu-li-ét không phải là cảm giác sợ hãi vì Giu-li-ét cũng đang rất cần sự chia sẻ. Khi biết được người đang ẩn nấp là Rô-mê-ô thì tâm trạng nàng trở nên phấn chấn nhưng nỗi sợ về mối thù giữa hai dòng họ lại lóe lên trong suy nghĩ của Giu-li-ét “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là nhà họ Môn-ta-ghiu đấy ư?”.
– Dù Rô-mê-ô khẳng định quyết tâm nhưng Giu-li-ét vẫn ám ảnh “Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ dư thừa nhưng là điều mà Giu-li-ét cần biết. Nàng cần biết Rô-mê-ô có thực sự yêu mình không? Động cơ thúc đẩy chàng có phải vì tình yêu chân thành hay là sự bồng bột thoáng qua?
– Khi không nghĩ về dòng họ Môn-ta-ghiu nữa thì Giu-li-ét lại nghĩ đến dòng họ Ca-piu-lét của mình và khẳng định vị trí nơi hai người đang nói chuyện là “nơi tử địa”, nếu “họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết anh”. Giu-li-ét nhận thức rất rõ bức tường ngăn cách tình yêu của họ là bức tường thù hận của hai dòng họ. Nàng sợ Rô-mê-ô không dám vượt qua và không thật lòng yêu nàng nữa.
– Giu-li-ét cảm thấy tình yêu chân thành của Rô-mê-ô với sự khẳng định dứt khoát “Cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Bức tường thù hận được dỡ bỏ bằng chính quyết tâm của hai người, nhất là quyết tâm của Giu-li-ét “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”.
– Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét phong phú và phức tạp hơn Rô-mê-ô, sự day dứt trong tâm trạng cho thấy sức ép nặng nề của hoàn cảnh, thấy được sự vây hãm của mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, thấy được mối nguy hiểm đang đe dọa hai người.
5. Tình yêu và thù hận đã được giải quyết trong đoạn trích.
– Trong toàn vở Rô-mê-ô và Giu-li-ét, xung đột cơ bản là xung đột giữa tình yêu và thù hận. Tuy nhiên trong đoạn trích, thù hận chỉ hiện ra qua suy nghĩ của các nhân vật nhưng không chi phối, điều khiển, quyết định hành động của nhân vật.
– Đối với Rô-mê-ô, chàng đã gặp Giu-li-ét, đã có được tình yêu của nàng và sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu ấy.
– Đối với Giu-li-ét, điều mà nàng cần là tình yêu chân thật của Rô-mê-ô và tình yêu kia đối với nàng là tất cả. Vì thế, khi biết và khẳng định chắc chắn Rô-mê-ô đến với mình bằng tình yêu chân thành thì mọi nghi ngại không còn, các băn khoăn cũng chấm dứt.
– Trong đoạn trích, thù hận bị đẩy lùi, bị xóa đi, chỉ còn lại tình người và tình đời, phù hợp với lí tưởng nhân văn, Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành trường ca bất tử của tình yêu.
Bài tập
Đoạn trích có mười sáu lời thoại, trong sáu lời thoại đầu, hai nhân vật không đối thoại với nhau dù có nhắc đến tên nhau trong lời thoại.
– Sáu lời thoại đầu là những độc thoại mà các nhân vật nói về nhau, là “tiếng lòng” của nhân vật nên là các độc thoại nội tâm.
– Vì là lời độc thoại nội tâm nên sáu lời thoại đầu chứa đựng cảm xúc yêu thương chân thành, đằm thắm. Ngôn từ mượt mà cùng cách nói ví von, so sánh rất phù hợp với tâm trạng phấn chấn, rạo rực xen lẫn những bồn chồn, mong nhớ của người đang yêu.
– Trong những lời thoại của Rô-mê-ô, có lúc như đang nói với Giu-li-ét khi nàng xuất hiện bên cửa sổ “Vầng dương đẹp tươi ơi…”; “Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi…”, lúc như đang đối thoại với chính mình “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ?”.
– Mười lời thoại còn lại mang hình thức đối thoại, các lời thoại hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe, xuất hiện tính chất hỏi đáp, đối đáp.
2. Những cụm từ chứng minh tình yêu của hai nhân vật chính.
– Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét như “Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi…”, “chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi” và trong lời thoại của Rô-mê-ô “Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên tôi…”; “chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu…”.
– Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ khiến Giu-li-ét lo lắng cho tình yêu, còn Rô-mê-ô thì sẵn sàng từ bỏ dòng họ để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét “ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu”.
– Cả hai đều ý thức được sự thù hận và nỗi lo chung của hai người là không được yêu nhau, không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, dù cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên, bất chấp hận thù.
3. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nam chính trong lời thoại đầu tiên.
– Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng, thiên nhiên hòa cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không sáng ngời soi rọi mọi cái mà mờ ảo, đóng vai trò trang trí cho cảnh gặp gỡ tình tứ của đôi tình nhân.
– Trong khung cảnh đêm khuya, trăng trở thành đối tượng để Rô-mê-ô so sánh với vẻ đẹp của Giu-li-ét. Trong mắt Rô-mê-ô, nàng như “vầng dương” lúc bình minh; sự xuất hiện của “vầng dương” khiến “ả Hằng Nga” trở nên “héo hon”, ‘nhợt nhạt”. Mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô là tâm lí của người đang khát khao yêu đương nên so sánh có chút cường điệu vẫn phù hợp.
– Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ?”, chắc “cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tưng bừng…”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên làm dấy lên khao khát yêu đương mãnh liệt “Kìa! Nàng tì má lên bàn tay! Ước gì ta là chiếc bao tay để mơn trớn đôi gò má ấy!”.
– Những cảm xúc được thể hiện qua những hình ảnh so sánh lãng mạn của Rô-mê-ô biểu hiện cảm xúc của một người đang yêu và được yêu. Đây là một tình yêu chân thành, không vụ lợi và hồn nhiên trong trắng.
4. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nữ chính.
– Cảnh trong đoạn trích xảy ra sau khi Rô-mê-ô và Giu-li-ét gặp gỡ nhau trong lễ hội hóa trang (cuộc gặp gỡ đã làm nảy sinh tình yêu của họ). Trong cuộc gặp gỡ đó, chính Rô-mê-ô đã thốt lên “Nàng là họ Ca-piu-lét sao? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nay nằm trong tay người thù” và Giu-li-ét cũng đã nhận thức được điều đó. Cả hai đều đã nhận thức được tình cảnh oái oăm, hoàn cảnh thù địch mà họ bị đặt vào.
– Sự nhận thức đó dẫn đến lời độc thoại băn khoăn day dứt, sự dằn vặt thể hiện tâm trạng rối bời trước hoàn cảnh éo le của Giu-li-ét “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…”.
Các lời thoại của Giu-li-ét thể hiện một tình cảm mãnh liệt, đồng thời cũng hàm chứa lo âu, bởi hận thù giữa hai dòng họ và bởi không biết Rô-mê-ô có yêu mình chân thành hay không.
– Các lời thoại của Giu-li-ét cũng là sự thổ lộ tình yêu trực tiếp, không ngại ngùng, không phải thổ lộ trực tiếp với Rô-mê-ô mà để nói với chính mình. Giu-li-ét không biết người yêu đang đứng nấp gần đấy.
Cách đặt vấn để của Giu-li-ét rất hồn nhiên, tha thiết và trong trắng. Nàng tự đề xuất các giải pháp “Chàng hãy từ bỏ tên họ đi” hoặc “Cái tên kia đâu có phải là xương thịt của chàng, chàng hãy đổi nó lấy cả tấm thân em”.
– Giu-li-ét bất ngờ khi biết có người đang nhìn mình, đang nghe mình thổ lộ. Sự bất ngờ của Giu-li-ét không phải là cảm giác sợ hãi vì Giu-li-ét cũng đang rất cần sự chia sẻ. Khi biết được người đang ẩn nấp là Rô-mê-ô thì tâm trạng nàng trở nên phấn chấn nhưng nỗi sợ về mối thù giữa hai dòng họ lại lóe lên trong suy nghĩ của Giu-li-ét “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là nhà họ Môn-ta-ghiu đấy ư?”.
– Dù Rô-mê-ô khẳng định quyết tâm nhưng Giu-li-ét vẫn ám ảnh “Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ dư thừa nhưng là điều mà Giu-li-ét cần biết. Nàng cần biết Rô-mê-ô có thực sự yêu mình không? Động cơ thúc đẩy chàng có phải vì tình yêu chân thành hay là sự bồng bột thoáng qua?
– Khi không nghĩ về dòng họ Môn-ta-ghiu nữa thì Giu-li-ét lại nghĩ đến dòng họ Ca-piu-lét của mình và khẳng định vị trí nơi hai người đang nói chuyện là “nơi tử địa”, nếu “họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết anh”. Giu-li-ét nhận thức rất rõ bức tường ngăn cách tình yêu của họ là bức tường thù hận của hai dòng họ. Nàng sợ Rô-mê-ô không dám vượt qua và không thật lòng yêu nàng nữa.
– Giu-li-ét cảm thấy tình yêu chân thành của Rô-mê-ô với sự khẳng định dứt khoát “Cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Bức tường thù hận được dỡ bỏ bằng chính quyết tâm của hai người, nhất là quyết tâm của Giu-li-ét “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”.
– Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét phong phú và phức tạp hơn Rô-mê-ô, sự day dứt trong tâm trạng cho thấy sức ép nặng nề của hoàn cảnh, thấy được sự vây hãm của mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, thấy được mối nguy hiểm đang đe dọa hai người.
5. Tình yêu và thù hận đã được giải quyết trong đoạn trích.
– Trong toàn vở Rô-mê-ô và Giu-li-ét, xung đột cơ bản là xung đột giữa tình yêu và thù hận. Tuy nhiên trong đoạn trích, thù hận chỉ hiện ra qua suy nghĩ của các nhân vật nhưng không chi phối, điều khiển, quyết định hành động của nhân vật.
– Đối với Rô-mê-ô, chàng đã gặp Giu-li-ét, đã có được tình yêu của nàng và sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu ấy.
– Đối với Giu-li-ét, điều mà nàng cần là tình yêu chân thật của Rô-mê-ô và tình yêu kia đối với nàng là tất cả. Vì thế, khi biết và khẳng định chắc chắn Rô-mê-ô đến với mình bằng tình yêu chân thành thì mọi nghi ngại không còn, các băn khoăn cũng chấm dứt.
– Trong đoạn trích, thù hận bị đẩy lùi, bị xóa đi, chỉ còn lại tình người và tình đời, phù hợp với lí tưởng nhân văn, Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành trường ca bất tử của tình yêu.
Bài tập
Đoạn trích có mười sáu lời thoại, trong sáu lời thoại đầu, hai nhân vật không đối thoại với nhau dù có nhắc đến tên nhau trong lời thoại.
– Sáu lời thoại đầu là những độc thoại mà các nhân vật nói về nhau, là “tiếng lòng” của nhân vật nên là các độc thoại nội tâm.
– Vì là lời độc thoại nội tâm nên sáu lời thoại đầu chứa đựng cảm xúc yêu thương chân thành, đằm thắm. Ngôn từ mượt mà cùng cách nói ví von, so sánh rất phù hợp với tâm trạng phấn chấn, rạo rực xen lẫn những bồn chồn, mong nhớ của người đang yêu.
– Trong những lời thoại của Rô-mê-ô, có lúc như đang nói với Giu-li-ét khi nàng xuất hiện bên cửa sổ “Vầng dương đẹp tươi ơi…”; “Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi…”, lúc như đang đối thoại với chính mình “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ?”.
– Mười lời thoại còn lại mang hình thức đối thoại, các lời thoại hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe, xuất hiện tính chất hỏi đáp, đối đáp.
2. Những cụm từ chứng minh tình yêu của hai nhân vật chính.
– Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét như “Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi…”, “chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi” và trong lời thoại của Rô-mê-ô “Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên tôi…”; “chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu…”.
– Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ khiến Giu-li-ét lo lắng cho tình yêu, còn Rô-mê-ô thì sẵn sàng từ bỏ dòng họ để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét “ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu”.
– Cả hai đều ý thức được sự thù hận và nỗi lo chung của hai người là không được yêu nhau, không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, dù cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên, bất chấp hận thù.
3. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nam chính trong lời thoại đầu tiên.
– Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng, thiên nhiên hòa cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không sáng ngời soi rọi mọi cái mà mờ ảo, đóng vai trò trang trí cho cảnh gặp gỡ tình tứ của đôi tình nhân.
– Trong khung cảnh đêm khuya, trăng trở thành đối tượng để Rô-mê-ô so sánh với vẻ đẹp của Giu-li-ét. Trong mắt Rô-mê-ô, nàng như “vầng dương” lúc bình minh; sự xuất hiện của “vầng dương” khiến “ả Hằng Nga” trở nên “héo hon”, ‘nhợt nhạt”. Mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô là tâm lí của người đang khát khao yêu đương nên so sánh có chút cường điệu vẫn phù hợp.
– Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ?”, chắc “cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tưng bừng…”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên làm dấy lên khao khát yêu đương mãnh liệt “Kìa! Nàng tì má lên bàn tay! Ước gì ta là chiếc bao tay để mơn trớn đôi gò má ấy!”.
– Những cảm xúc được thể hiện qua những hình ảnh so sánh lãng mạn của Rô-mê-ô biểu hiện cảm xúc của một người đang yêu và được yêu. Đây là một tình yêu chân thành, không vụ lợi và hồn nhiên trong trắng.
4. Diễn biến tâm trạng của nhân vật nữ chính.
– Cảnh trong đoạn trích xảy ra sau khi Rô-mê-ô và Giu-li-ét gặp gỡ nhau trong lễ hội hóa trang (cuộc gặp gỡ đã làm nảy sinh tình yêu của họ). Trong cuộc gặp gỡ đó, chính Rô-mê-ô đã thốt lên “Nàng là họ Ca-piu-lét sao? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nay nằm trong tay người thù” và Giu-li-ét cũng đã nhận thức được điều đó. Cả hai đều đã nhận thức được tình cảnh oái oăm, hoàn cảnh thù địch mà họ bị đặt vào.
– Sự nhận thức đó dẫn đến lời độc thoại băn khoăn day dứt, sự dằn vặt thể hiện tâm trạng rối bời trước hoàn cảnh éo le của Giu-li-ét “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…”.
Các lời thoại của Giu-li-ét thể hiện một tình cảm mãnh liệt, đồng thời cũng hàm chứa lo âu, bởi hận thù giữa hai dòng họ và bởi không biết Rô-mê-ô có yêu mình chân thành hay không.
– Các lời thoại của Giu-li-ét cũng là sự thổ lộ tình yêu trực tiếp, không ngại ngùng, không phải thổ lộ trực tiếp với Rô-mê-ô mà để nói với chính mình. Giu-li-ét không biết người yêu đang đứng nấp gần đấy.
Cách đặt vấn để của Giu-li-ét rất hồn nhiên, tha thiết và trong trắng. Nàng tự đề xuất các giải pháp “Chàng hãy từ bỏ tên họ đi” hoặc “Cái tên kia đâu có phải là xương thịt của chàng, chàng hãy đổi nó lấy cả tấm thân em”.
– Giu-li-ét bất ngờ khi biết có người đang nhìn mình, đang nghe mình thổ lộ. Sự bất ngờ của Giu-li-ét không phải là cảm giác sợ hãi vì Giu-li-ét cũng đang rất cần sự chia sẻ. Khi biết được người đang ẩn nấp là Rô-mê-ô thì tâm trạng nàng trở nên phấn chấn nhưng nỗi sợ về mối thù giữa hai dòng họ lại lóe lên trong suy nghĩ của Giu-li-ét “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là nhà họ Môn-ta-ghiu đấy ư?”.
– Dù Rô-mê-ô khẳng định quyết tâm nhưng Giu-li-ét vẫn ám ảnh “Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ dư thừa nhưng là điều mà Giu-li-ét cần biết. Nàng cần biết Rô-mê-ô có thực sự yêu mình không? Động cơ thúc đẩy chàng có phải vì tình yêu chân thành hay là sự bồng bột thoáng qua?
– Khi không nghĩ về dòng họ Môn-ta-ghiu nữa thì Giu-li-ét lại nghĩ đến dòng họ Ca-piu-lét của mình và khẳng định vị trí nơi hai người đang nói chuyện là “nơi tử địa”, nếu “họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết anh”. Giu-li-ét nhận thức rất rõ bức tường ngăn cách tình yêu của họ là bức tường thù hận của hai dòng họ. Nàng sợ Rô-mê-ô không dám vượt qua và không thật lòng yêu nàng nữa.
– Giu-li-ét cảm thấy tình yêu chân thành của Rô-mê-ô với sự khẳng định dứt khoát “Cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Bức tường thù hận được dỡ bỏ bằng chính quyết tâm của hai người, nhất là quyết tâm của Giu-li-ét “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”.
– Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét phong phú và phức tạp hơn Rô-mê-ô, sự day dứt trong tâm trạng cho thấy sức ép nặng nề của hoàn cảnh, thấy được sự vây hãm của mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, thấy được mối nguy hiểm đang đe dọa hai người.
5. Tình yêu và thù hận đã được giải quyết trong đoạn trích.
– Trong toàn vở Rô-mê-ô và Giu-li-ét, xung đột cơ bản là xung đột giữa tình yêu và thù hận. Tuy nhiên trong đoạn trích, thù hận chỉ hiện ra qua suy nghĩ của các nhân vật nhưng không chi phối, điều khiển, quyết định hành động của nhân vật.
– Đối với Rô-mê-ô, chàng đã gặp Giu-li-ét, đã có được tình yêu của nàng và sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu ấy.
– Đối với Giu-li-ét, điều mà nàng cần là tình yêu chân thật của Rô-mê-ô và tình yêu kia đối với nàng là tất cả. Vì thế, khi biết và khẳng định chắc chắn Rô-mê-ô đến với mình bằng tình yêu chân thành thì mọi nghi ngại không còn, các băn khoăn cũng chấm dứt.
– Trong đoạn trích, thù hận bị đẩy lùi, bị xóa đi, chỉ còn lại tình người và tình đời, phù hợp với lí tưởng nhân văn, Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành trường ca bất tử của tình yêu.
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
ừ lâu, trong đời sống văn học nhân loại, mối tình Rô -mê-ô và Giu-li-ét trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Sếch-xpia đã trở thành biểu tượng cho tình yêu chung thủy, mãnh liệt. Mặc dù bi kịch kết thúc, cả hai đều chết, nhưng tình yêu của họ đã chiến thắng, thù hận được xóa bỏ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn của hổi thứ hai đã bắt đầu hé mở về một sức mạnh tình yêu vượt lên thù hận.
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là một nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời kì Phục hưng, thời kì của chú nghĩa nhân văn, kết tinh khát vọng tự giải phóng cùa con người khỏi những xiềng xích phong kiến và chù nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cố. Với một tài năng xuất chúng, Sếch-xpia đã để lại 37 vở kịch mà phần lớn đều trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Từ những điển hình nghệ thuật sinh động, ông tái hiện trung thành hiện thực xã hội nước Anh đương thời; phơi bày tội ác phong kiến với những mối hận thù truyền kiếp, những quan niệm luân lí và lễ giáo khắc nghiệt. Đổng thời cũng chỉ ra bộ mặt xảo trá của chù nghĩa că nhân tư sản thời kì đầu. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la, niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và sức vươn dậy để khẳng định cuộc sống của con người.
Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một trong số những vở kịch nổi tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của haị dòng họ Môn-ta-ghiu yà Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây dựng thành một bi kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lần đầu tiên vào năm 1595. Từ bấy đến nay, vở kịch dã đựợc dịch, được chuyển thể và được công diễn ở hầu khắp các nước trên thế giới, vở bi kịch dựa trên xung đột giữa con người với khát vọng yêu dương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch vây hãm. Vượt lên tất cả, Rô- mê-ô và Giu-li-ét đã đến với nhau: Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo xã hội phong kiến là mối trường thụ địch với tình người, với chủ nghĩa nhân văn.
Trong cuộc gặp gỡ kì duyên tại buổi dạ hội, tiếng sét ái tình đã đưa bước chân Rô-mê-ô quay trở lại, vượt tường vào vườn nhà Giu-li-ét. Vầng trăng huyền diệu, lãng mạn đã được nghe tiếng nói yêu thương cháy bỏng thốt ra từ hai con tim của hai người tuổi (rẻ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn “Tình yêu và thù hận” chính là lời cùa tình yêu say đắm, lãng mạn đã đưa Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt nga của những toan tính, thù hận.
Rô-mê-ô và Giu-Ii-ét không đối thoại với nhau ngay từ đầu vì lúc này họ chưa nhìn thấy nhau, đúng hơn là chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấv Giu-li-ét. Chán” khuất trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy Giu-li-ét lộng lẫy ngời lên giữa trăng sao. Chàng độc thoại mà như là đối thoại bằng những lời yêu thương có cánh. Giu-li- ét không nhìn thấy Ró-mê-ô dưới tán lá khu vườn nhưng có một chàng Rô-mê-ô hiển hiện trong tâm trí nàng cùng với hận thù giữa hai dòng họ khiến trái tim nàng thổn thức mà như có ai đó bóp nghẹt. Nàng nói với mình mà như nói cùng Rô-mê-ô. Từ lời thoại thứ bảy trở đi, ngôn từ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét mới chuyên sang tình thế đối thoại. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội tâm nhưng được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, chí để mình nghe.
Trong toàn bộ đoạn trích, Rô-mê-ô có tất cả 8 lời thoại nhưng quan trọng hơn cả là lời thoại đầu tiên cũng là lời thoại dài nhất. Tuy đây chỉ là lời độc thoại nội tâm nhưng dưới ngòi bút nghệ thuật của Sếch-xpia, trong độc thoại dường nhơ vẫn có đối thoại, đảm bảo tính sinh động của kịch. Rô-mê-ô lúc thì như nói với Giu-li-ét vừa xuất hiện ở cửa sổ (Vầng dương đẹp rươi ơi…), lúc thì như đang đối thoại với chính mình (nàng; đang nói kìa…). Đầu tiên, khi thấy Giu-li-ét xuất hiện, Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Lúc này đang là đêm khuya, một đêm trăng sáng (dạ hội vừa kết thúc, Rô-mê-ô cùng bạn bè ra về nhưng chàng quay lại ngay, trèo tường vào vườn). Trong khung cảng ấy, Rô-mê-ô dễ so sánh người đẹp với chị Hằng; nhưng dưới con mắt của chàng, vầng tráng bì sao được với Giu-li-ét. nhà văn đã để cho chàng so sánh người đẹp với mặt trời mọc lúc rạng đỏng khiến mặt trăng thành héo hon. nhợt nhạt. Lời chí dẫn cho biết Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Thế nhưng Ró-mê-ô vẫn nói : “Vầng dương đẹp iươi ơi, hãy mọc lẻn đi…”. Cũng như vào lúc bình minh-, vầng thái dương từ từ mọc lên ớ chân trời sau những tia sáng báo hiệu đầu tiên, Giu-li-ét thoáng xuất hiện ở cửa sổ rồi, nhưng nàng sẽ hiên ra rực rỡ hơn.
Từ hình ảnh bao quát của Giu-li-ét, Sếch-xpia để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tâp trung vào đôi mắt đẹp của nàng một cách khéo léo bằng cách chuyển dấn : “Nàng nhìn kìa, miệng nàng có nói gì dâu… Đôi mắt nàng lên tiếng”, ánh mắt lấp lánh khiến Rô-mê-ô ngỡ là đôi môi mấp máy! Hợp lí lắm. Trong khung cảnh đêm trăng. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt nàng như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Nhưng đôi mắt nàng chỉ đẹp như hai ngôi sao thôi ư, dù đó là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời ? Qua tâm hồn say đắm của chàng, chẳng ngôi sao nàọ có thể bì được với đổi mắt đẹp kia ! Sếch-xpia để cho nhân vật cùa ông đặt ra may giả định : Sao xuống nằm dưới đổi lông mày kia ư ?… Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư ?… Một cách hết sức tự nhiên, giả định thứ nhất hướng mạch suy nghĩ cùa Rổ-mô-ô chuyển sang ca ngơi đôi gò márực rỡ cùa nàng tưởng như lúc nào khổng biết, dản đến ý cuối cùng : “Kìa, nàng tì má lên bàn tay /”…
Lời thoại đầu tiên đã thể hiện tầm say đắm của Rô-mê-ô trước nhan sắc người đẹp. Mạch suy nghĩ của chàng diễn ra theo trình tự hợp lí và mối liên tưởng, so sánh của chàng phù hợp với khung cảnh lúc bấy giờ.
Tâm trạng Rô-mê-ô khá đơn giản. Ta chỉ bắt gặp ở chàng tình yêu say đắm không chút đắn đo. Điều đó bộc lộ ngay từ lời thoại thứ nhất. Lời thoại thứ năm (nói Riêng – Mình cư im lặng hay là lên tiếng nhỉ”. Chẳng phải là dấu hiệu băn khoăn của chàng khi biết được nỗi lòng Giu-li-ét (lời thoại 4). Chàng có thể trả lời ngay, trả lời dứt khoát.
Tâm trạng Giu-li-ét diễn biến phức tạp hơn. Vừa gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, bây giờ về phòng, đứng bên cửa số nhìn ra vườn trong đêm thanh vắng, tưởng không có ai, nàng đã thốt lên thành tiếng nỗi niềm riêng. Những lời trực tiếp thổ lộ tình yêu mãnh liệt không chút che giấu, không chút ngượng ngùng (các lời thoại 4, 6). Qua mấy lời thoại ấy, kể cả hai tiếng “ôi- chao /” (lời thoại 2), ta thấy Giu-li-ét tuy chưa đầy 15 tuổi mà rất chín chắn, cảm nhận được mối tình của mình có thể sẽ vấp phải trở ngại là thù hận giữa hai dòng họ.
Thông thường, người con gái không chủ động thổ lộ tình yêu với người mình yêu. Do vô tình mà Giu-li-ét đã làm chuyện đó. Khi biết có kẻ đã nghe được nỗi lòng của mình, mới đầu có thể nàng nghi người đứng khuất trong bóng tối kia là kẻ xa lạ (lời thoại 8), rồi nàng rõ đó chính là Rô-mê-ô (lời thoại 10). Trong lời thoại 10, chẳng phải ngẫu nhiên Giu-li-ét lại nhắc đến dòng họ Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô, mối thù hận của hai dòng họ vẫn ám ảnh nàng. Các lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 7, 9, I I) với các từ ngữ “người yêu, nàng tiên yên quy’, với quyết tâm dứt khoát dứt bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu chưa bảo đảm tình yêu thật sự của Rô-mê-ô đối với nàng. Vì vậy Giu-li-ép mới hỏi một câu tưởng như thừa : “Anh làm thế nào mà tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”
Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 13) với từ “tình yêu” lần đầu được nói đến và nhắc đi, nhắc lại tới bốn lần dù làm cho Giu-li-ét tin rằng Rô-mê-ô yêu mình. Nàng tin vào tình yêu nhưng nàng vẫn chưa thê tin tưởng tuyệt đối về sức mạnh của tình yêu. Chàng đã vượt được mấy bức tường đá vào đây, nhưng liệu có việc được mối hận thù giữa hai dòng họ hay không ?
Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 15) đã giải tỏa mối băn khoăn của Giu-li-ét và câu : “Em chằng đời muốn họ bắt anh nơi đây” là lời nàng tế nhị chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô, khác hẳn với những lời lẽ quá bạo dạn lúc đầu khi nàng tưởng không có ai nghe thấy.
Diễn biến tâm trạng của Giu-li-ét thể hiện rõ nàng yêu Rô-mê-ô nhưng không biết Rô-mê-ô có yêu mình không, nàng sẵn sàng vượt qua thù hận giữa hai dòng họ nhưng không biết Rô-mê-ô có sẵn sàng vượt qua như thế không. Qua 16 lời thoại, vấn đề “tình yêu và thù hận đã được giải quyết”.
Xung đột được coi là đặc trưng cơ bản của kịch. Xung đột trong kịch là sự va chạm gay gắt giữa những lực lượng đối địch, giữa hai hoặc nhiều nhân vật, nhiều quan điểm, thái độ khác nhau trước cùng một tình huống, hoặc giữa cá nhân với hoàn cảnh; xung đột cũng có thể xảy ra ngay trong lòng người. Xung đột kịch chi phối hành động của các nhân vật và từng bước đòi hỏi phải được giải quyết để thúc đẩy hành động kịch. Thông thường, xung đột là cơ sở của hành động kịch. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành động kịch nào cũng được xây dựng trên cơ sở các xung đột. Trong đoạn trích “Tình yên và thù hận”, ta dễ nghĩ rằng có xung đột giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với mối thù hận giữa hai dòng họ Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu.
Đúng là mối hận thù giữa hai dòng họ có thể cản trở mối tình của đôi trẻ. Nhưng với tất cả những diễn biến tâm lí của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra qua 16 lời thoại, ta không thấy có sự xung đột nào cả, không có một lực lượng nào xuất hiện cản trở tình yêu của họ. Rô-mê-ô gặp Giu-li-ét và yêu nàng không một chút băn khoăn, đắn đo, không có sự giằng xé nội tâm. Trước sau, vì tình yêu, Rô-mê-ô sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình, chàng cũng đã khẳng định điều đó nhiều lần với Giu-li ét. Giu-li-ét có nhiều băn khoăn, nhưng là băn khoăn không biết Rô-mê-ô có vượt qua được mối hận ihù kia không, băn khoăn về phía Rô-mê-ô chứ khống phải về bản thân nàng. Có thể nói, ở đây không có xung đột giữa giữa tình yêu và thù hận mà chi có tình yêu trong sáng, mãnh liệt vượt lên trên hận thù.
Khát vọng tình yêu luôn luôn cháy trong trái tim con người nhưng không phải ai cũng đủ dũng khí và sức mạnh để đưa tình yêu vượt lên mọi rào cản. Sức mạnh phải được tạo nên bởi sự cộng hưởng của hai trái tim yêu. Rô-mê-ô và Giu-li-ét chỉ bằng 16 lời thoại đã cho chúng ta thấy rõ sức mạnh của sự cộng hưởng ấy. Họ không chi đưa tình yêu vượt qua rào cản mà còn khiến tình yêu thăng hoa để trở thành bất tử. Thiên tài nghệ thuật của Sếch-xpia cùng với tư tưởng nhân văn của thời đại ông đã cộng hưởng để làm nên điều kì diệu đó.
Bài văn mẫu 2
“Romeo và Juliet”, một bản tình ca bất hủ của nhân loại, một nỗi niềm thổn thức lấy đi biết bao nước mắt của khán giả ở mọi lứa tuổi. Đại văn hào đã viết nên một biểu tượng trường tồn của tình yêu, mối tình thủy chung son sắt, vượt lên mọi gian nan khó khăn, sẵn sàng hi sinh cả tính mạng để được ở bên nhau. Trong đó, mười sáu câu thoại trong trích đoạn hồi thứ hai đã mở ra một kết cục tuy bi kịch nhưng là lời khẳng định về tình yêu mãnh liệt, tình yêu vượt lên trên mọi thù hận dân tộc qua những diễn biến tâm lý của hai nhân vật chính.
Là nhà thơ, nhà viết kịch đại tài đến từ xứ sở sương mù, William Shakespeare mang trong mình tư tưởng nhân đạo sâu sắc, khao khát giải phóng con người, đập tan mọi xiềng xích, rào cản trong xã hội. Những tác phẩm của ông như những bức tranh tả thực, có khả năng thâu tóm và tái hiện lại xã hội nước Anh lúc bấy giờ nhằm lên án những quan niệm cổ hủ, lạc hậu cùng chế độ phong kiến nhơ nhớp với tầng lớp các quan điểm, hủ tục trói buộc con người. Chính vì thế, với tầm nhìn rộng mở và tư tưởng tiến bộ, khát khao tự do, tác phẩm của ông được coi là tiếng lòng của những tâm hồn biết rung động, trái tim hướng thiện, yêu thương và thấu hiểu con người cùng cảnh ngộ éo le của họ.
“Romeo và Juliet” đã đưa Shakespeare lên hàng tượng đài trong nghệ thuật kịch sân khấu. Câu chuyện kể về một mối tình oan gia, khi Romeo và Juliet lại là con cháu của hai gia đình có mối thù truyền kiếp. Ra mắt năm 1595, vở bi kịch này đã tạo nên tiếng vang trên toàn thế giới. Đứng giữa những bi kịch, xung đột tâm lý xã hội, hai nhân vật chính đã hoàn thành được ước nguyện bên nhau trọn đời. Kết thúc thảm thương của họ đã một lần nữa khẳng định sức sống tiềm tàng của con người, đồng thời lên án gay gắt xã hội phong kiến vô nhân đạo đã đang tâm cắt bỏ mối duyên trời định, dẫn đến cái chết bi thương của hai nhân vật.
Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” với những lời đối thoại trực tiếp giữa chàng Romeo và nàng Juliet, người đọc dễ dàng hình dung ra được tình yêu say đắm của những người trẻ tuổi, tình yêu vượt lên trên sự an bài của số phận, những thù hận truyền kiếp. Gặp nhau một cách tình cờ trong buổi vũ hội, Rô – mê – ô và Giu – li -ét đã phải lòng nhau, hai trái tim tuổi trẻ đã hòa cùng nhịp đập. Động lực lớn lao ấy đã tiếp bước cho Rô – mê – ô vượt qua những gian khó, hiểm nguy để gặp nàng tiên của đời mình. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn “Tình yêu và thù hận” không chỉ đơn thuần là lời trò chuyện mà đó chính là những tấm thư tình đẹp nhất, lãng mạn nhất, nhưng đáng buồn thay, những tấm thư ấy lại được viết nên bằng nỗi đau, sự mất mát và cả chính tính mạng của hai nhân vật.
Lấy không gian đêm khuya, một đêm trăng sáng vằng vặc trên trời để làm nền cho tình cảm mặn nồng của đôi tình nhân. Khung cảnh đêm khuya có phần lén lút, thận trọng do mối tình của hai người không được phép công khai đoan chính. Chàng Romeo nhìn thấy Juliet trước, khuất sau những lùm cây mà vọng lên ban công, nơi nàng Juliet đẹp như thơ mộng đang đợi chờ. Hình ảnh ánh trăng xuất hiện cốt là để tô đậm thêm vẻ đẹp mĩ miều, thanh thuần của Juliet. Sau khi nghe thấy những lời độc thoại của nàng Juliet, lúc này Romeo mới lên tiếng. Hiểu được tấm chân tình của nàng dành cho mình, Romeo sẵn sàng từ bỏ danh phận, của cải để đi theo tiếng gọi tình yêu. Diễn biến tâm trạng nhân vật Romeo có phần dễ hiểu, đơn giản.
Đối mặt với sự thù hận truyền đời của hai dòng họ, chàng thậm chí sẵn sàng đề nghị: “Chỉ cần em gọi tôi là người yêu, tôi sẽ thay tên đổi họ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Romeo nữa; nếu chính tôi đã viết tên đó, thì tôi xé nát nó ra”. Những lời nói này đều là sự thật tâm, thật lòng, bắt nguồn từ tình yêu cũng như khát vọng bỏng cháy được đường đường chính chính công khai mối tình này. Có người cho rằng, Romeo còn trẻ tuổi và bốc đồng khi dám thốt ra những lời chối bỏ cả gia tộc, dòng họ để đi theo tiếng gọi trái tim. Nhưng xét về mặt tình, những lời nói ấy đều thể hiện một tình yêu nồng cháy, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng đi lên từ hai bàn tay trắng và giũ bỏ cả thân phận quý tộc của mình.
Khi Juliet nhắc chàng về sự nguy hiểm khi đang ở trong khuôn viên dòng họ Ca-piu-let, chàng Romeo càng trở nên gan dạ, thậm chí có cả sự bất cần: “Em ơi! Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu.”. Đối với trái tim lần đầu biết rung động ấy, giờ phút được nhìn thấy ánh mắt người tinh thì mọi luân lý giáo điều đều trở nên vô nghĩa. Chàng còn gọi chính dòng họ của mình là “họ”, một cách gọi đầy xa cách, lạ lẫm. Với chàng lúc này, chỉ còn mình Juliet là vô giá, là nguồn sống, “tôi vượt được từng này là nhờ đôi cánh của tình yêu”. Trong tâm trạng chàng trai trẻ bấy giờ, tình yêu được thần thánh hóa trở thành cõi thần tiên, là đôi cánh đưa chàng vượt qua mọi thử thách, đứng lên trên mọi nỗi sợ hãi hay rào cản dòng tộc. Ở chàng chỉ còn tình yêu say đắm, “cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”, không chùn bước, không ngần ngại hay băn khoăn, bộc lộ tính cách của con người quyết đoán, mạnh mẽ.
Đối lập với chàng Romeo, mang thân phận là một cô gái con nhà danh gia vọng tộc, những diễn biến tâm trạng của Juliet đều mang nhiều suy nghĩ, thận trọng hơn. Sau buổi dạ hội, nàng trót mang lòng vấn vương, thương nhớ chàng Romeo. Sau những lời độc thoại bày tỏ tình cảm mãnh liệt không chút ngại ngần, khi bắt gặp Romeo trong vườn nhà, nàng có chút lo lắng, hoảng sợ. Tư tưởng hận thù giữa hai dòng họ đã phần nào ăn mòn trong tâm trí nàng, vả lại, phận nữ nhi không thể chống cự, quay lưng với cả gia đình để đi theo người tinh. Trong lời đối thoại của nàng luôn song hành tồn tại hai diễn biến tâm trạng, một bên là tình yêu ngây thơ, một bên là sự bồn chồn khi ý thức được những nguy hiểm của mối tình oan trái này. Câu hỏi hết sức trong sáng: ” Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác đi? Cái tên nó có ý nghĩa gì đâu” cho thấy chính bản thân nàng cũng muốn Romeo từ bỏ dòng họ để đi theo nàng. Nàng tin vào tình yêu nhưng niềm tin ấy không hoàn toàn tuyệt đối. Chính vì thế mà nàng mới thảng thốt khi gặp Romeo: “Anh làm thế nào mà tới được chốn này anh ơi, và tới làm gì thế?”. Nàng đơn giản chỉ không ngờ tình cảm lại mãnh liệt tới mức có thể khiến người tình của nàng bất chấp hiểm nguy đến vậy. Tuy khẩn cầu: “Romeo chàng ơi! Chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi. Chàng hãy đem tên họ ấy đổi lấy cả em đây” nhưng trong tâm khảm người con gái ấy vẫn có chút gì lấn cấn, không dám, không nỡ. Một bên là thù hận, một bên là tình yêu, một bên là danh dự cả dòng họ và một bên là hạnh phúc cá nhân minh. Đấu tranh nội tâm giằng xé của cô gái mới chỉ mười lăm tuổi lần đầu biết yêu cho thấy sự nồng cháy và sức mạnh tiềm ẩn của tình yêu.
Xét cho cùng, câu nói “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây” chính là lời thuận ý theo tình yêu một cách đầy ý nhị. Thù hận với Juliet cũng chẳng còn nghĩa lý gì, tình yêu của trái tim tuổi trẻ, thứ tình cảm thuần khiết đã vượt lên trên cái nền của mối nợ máu truyền từ đời này sang đời khác. Tư tưởng nhân đạo trong thời kì Phục hưng được bộc lộ thẳng thắn, dứt khoát. Rõ ràng, Romeo và Juliet hoàn toàn vô tội, chẳng hề liên quan đến những sự kiện đã xảy ra từ quá khứ thời ông, thời cụ của họ. Quan điểm bảo thủ và lề thói lạc hậu đã không thể ngăn cản được hai trái tim trẻ khát vọng được yêu, được hòa quyện. Sự bất tử của tình yêu con người không chỉ tô đậm tâm trạng của nhân vật Juliet mà còn toát lên tư tưởng nhân văn, đồng thời gửi gắm niềm hi vọng vào con người trong một tương lai tươi sáng, hạnh phúc hơn.
Đứng giữa tình yêu và thù hận, nhưng qua đoạn đối thoại của hai nhân vật, người đọc không thấy có bất kì một xung đột nào giữa hai nhân vật, chỉ có tình yêu nồng nàn giữa hai trái tim tri kỉ. Xung đột đến từ phía Juliet trong tâm trạng nàng khi phải đưa ra quyết định: tình yêu hay gia tộc. Cái dai dẳng và khủng khiếp của sự hận thù hiện lên rõ ràng trong dòng tâm trạng của Juliet, nhưng đến cùng, tình yêu của hai phía đã vượt lên tất cả, mối tình thời đại, mối tình bất tử. Những lễ giáo đã trói buộc con người quá lâu đã đến lúc cần được phá hủy và bài trừ, như kết thúc của tác phẩm, khi bị kịch rơi vào đường cùng thì mối thù kia cũng được xóa bỏ, chỉ là, cái giá phải đánh đổi quá đắt, quá bi thương.
Với mười sáu lời đối thoại giữa Romeo và Juliet, diễn biến tâm trạng của hai nhân vật đã được khắc họa rõ nét. Nếu như Romeo có chút xốc nổi, hăng hái thì Juliet lại có nốt trầm của người con gái tuy nhỏ tuổi nhưng chín chắn, trưởng thành. Cộng hưởng và bổ trợ cho nhau, họ đã đưa tình yêu của mình vượt qua những ngăn cấm về mặt đạo lý, để lại cho ngàn đời khúc hát về tình yêu diệu kì. Với khả năng khai thác dòng chảy cảm xúc nhân vật, để nhân vật bộc lộ tính cách qua chính lời nói và hành động cùng những nút thắt mở linh hoạt, Shakespeare đã khẳng định sự chiến thắng của tình người, gửi vào tác phẩm một thông điệp đi trước thời đại về mỗi khát vọng tự do của nhân loại.
Bài văn mẫu 3
Trong đời sống của văn học nói riêng và cuộc sống của nhân loại nói chung, đã từ lâu mối tình của Rô-mê-ô và giu-li-ét trong vở kịch “Rô-mê-ô và Giu-li-ét” của Sếch-xpia đã trở thành một biểu tượng của tình yêu chung thủy, mãnh liệt. Cho dù cả hai phải chịu bi kịch cái chết nhưng tình yêu của họ đã chiến thắng và xóa bỏ hận thù. Đặc biệt, trong 16 lời thoại của đoạn trích “Tình yêu và thù hận” đã hé mở về sức mạnh của một tình yêu vượt lên trên thù hận.
Mười sáu lời thoại trong đoạn trích chính là lời của tình yêu say đắm, lãng mạn và nồng nhiệt, đưa Rô-mê-ô và giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt ngã của thù hận truyền kiếp. Lúc mở đầu, Rô-mê-ô và giu-li-ét không đối thoại trực tiếp với nhau bởi khi đó họ chưa nhìn thấy nhau, chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấy giu-li-ét: “khuất trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy giu-li-ét lộng lẫy ngời lên giữa trăng sao”. Chàng đang độc thoại nhưng vẫn nói những lời có cánh như là đang đối thoại, còn giu-li-ét tuy không nhìn thấy chàng dưới vườn nhưng trong tâm tí nàng lại luôn có hình bóng chàng cùng mối thù hận giữa hai dòng họ.
Nàng độc thoại với trái tim đầy thổn thức như có ai đó bóp nghẹn lại. Ở lời thoại đầu tiên đã cho thấy niềm say đắm của Rô-mê-ô trước nhan sắc của người đẹp, mạch suy nghĩ của chàng là hoàn toàn theo trình tự hợp lí, những liên tưởng và so sánh phù hợp với khung cảnh: “Vẻ rực rỡ của đôi gò má…như ánh sáng ban ngày làm cho đèn nến phải thẹn thùng; còn cặp mắt nàng trên bầu trời… đến nỗi chim chóc sẽ lên tiếng hót vang và tưởng là đêm đã tàn”. Rô-mê-ô có suy nghĩ đơn giản, chàng có một tình yêu say đắm không chút đắn đo, khi biết được nỗi lòng của giu-li-ét trong lời thoại thứ tư, chàng có chút băn khoăn trong lời thoại thứ năm “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình lên tiếng nhỉ?”
Tâm trạng của Giu-li-ét lại phức tạp hơn, mang những nỗi niềm riêng, nàng đã không còn kiềm chế được cảm xúc, thốt lên, thổ lộ tình yêu mãnh liệt không che giấu, ngượng ngùng “Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi… đổi lấy cả em đây!”. Khi biết có người nghe được nỗi lòng của mình, nàng ngỡ đó là người xa lạ nhưng rồi nàng đã biết rõ đó chính là Rô-mê-ô “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư?”, nàng nhắc đến chàng nhưng vẫn mang theo nỗi ám ảnh thù hận dòng họ. Rô-mê-ô đã liên tục dùng những từ như “người yêu, nàng tiên yêu quý” trong lời thoại của mình để khẳng định quyết tâm từ bỏ dòng họ của mình vì tình yêu.
Thế nhưng Giu-li-ét vẫn còn băn khoăn mà hỏi Rô-mê-ô rằng: “anh biết mình là ai rồi đấy, nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây”. Lời đáp của Rô-mê-ô đã cho thấy tình yêu mãnh liệt đang cháy bỏng trong chàng “Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu… vậy người nhà em ngăn sao nổi tôi”. Tình yêu được Rô-mê-ô nhắc đến bốn lần, làm cho Giu-li-ét tin vào tình yêu của mình, tuy nhiên nàng tin vào tình yêu nhưng chưa tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của tình yêu “Họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết chết anh”, nhưng lời đáp của Rô-mê-ô đã giải tỏa mỗi lo ngại của nàng “em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng thù hận của họ nữa đâu”. Cuối cùng là lời thừa nhận đầy tế nhị của nàng chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô “Em chẳng đời nào muốn họ bắt anh nơi đây”.
Có thể thấy, qua mười sáu lời thoại, vấn đề “tình yêu và thù hận” đã được giải quyết. Khát vọng tình yêu luôn cháy bỏng trong tim nhưng không phải ai cũng dũng mãnh đưa tình yêu vượt qua mọi rào cản. Sức mạnh đó phải cộng hưởng của hai trái tim yêu và Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã cho ta thấy rõ sức mạnh của sự cộng hưởng ấy. Họ đã đưa tình yêu vượt lên trên thù hận, rào cản, khiến tình yêu thăng hoa và bất tử.