Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 10 câu hỏi như sau: phân tích bài thơ tỏ lòng
Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn: Câu 4: Cảm nhận….
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tâng lớp bình dân song chí lớn
n ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vướng Trần
Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão
cùng những tên tuối lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiên hách, góp
phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyển rộng
rãä vì nó bày tò khát vọng mãnh liệt của tuổi trè trong xã hội phong kiển đương thời: làm trai
phải trà cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tường trung
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều
đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang,
mây lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khòi bo cöi, giữ vững sơn hà
xä tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sóm thẩm nhuẩn lòng yêu nước,
tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc.
Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia
hưng vong, thât phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tò lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật
Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai
câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đây sức sống của những trang nam nhi
– chiển binh quà càm đang xà thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của
quân đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp ki thu (Dich nghĩa: câm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã
mây thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mây thu. So vői nguyên văn chữ Hán thì cầu thơ
dịch chưa lột tả được hết chất oại phong, kiêu hùng trong tư thể của người lính đang chiên
đầu bào vệ Tô quốc. Hoành sốc là câm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thể tân công düng mẫnh,
áp đào quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian
rộng lớn là giang son đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang son kháp kì thu). Có thể
nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kè thù
nào khuất phục được. Từ hình tượng ây, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tòa
sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dich nghĩa: khí thể của ba quân mạnh như
hỗ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế
chiến đầu và chiến thẳng không gì ngăn càn nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn
dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói
thậm xưng đế tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tâm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bôn chữ ngằn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức
tượng đài tuyệt đẹp về người linh quà càm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngű Lão từ một chiến binh dày dạn đã
trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trè. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng
công danh của đâng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý
muốn được chiến đấu, cống hiến đoi mình cho vua, cho nước. Như bao kè sĩ cùng thời,
Phạm Ngű Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời
đất, phài có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa
trà hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liều công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam từ còn vưong nợ
Luông thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bi thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao,
Khồng Minh đã lập được công lớn, nhiềểu phen làm cho đôi phưdng khốn đốn; vì thế ông rất
được Lưu Bị tin yêu.
Ly gương sáng trong lich sừ cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phẩn đầu vươn lên cho
bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phài có ở một đẩng nam nhi. Là một
tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vướng Trần Quộc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh
bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha noi làn tến müi đạn, làm gương cho ba quân tướng
sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhẳm quét sạch quân xâm
lược ra khỏi bồ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngü Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng
quân thù là ng công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trà hết. Mà
như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thòa. Cách nghĩ,
cách sông của Phạm Ngű Lão rất tích cực, tiền bộ. ông muôn sông xứng đáng với thời đại
anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hằn hai câu thở trước. Càm xúc hào sảng ban đầu dân
chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm
trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhung lại có một trái tim nhạy càm của một thi nhân.
Thuật hoài là bài thd trữ tình bày tò được hùng tânm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ
đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực
đổi với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn
Phạm Ngũ Lão.
Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:
Em tham khảo dàn ý chi tiết sau nhé:
Mở bài
– Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng, một nhà văn hóa lớn.
– Bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới – bài 43) phản ánh vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà thơ.
Thân bài
Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
– Miêu tả cảnh ngày hè, tác giả đã sử dụng các động từ: đùn đùn, giương, phun.
+ Từ đùn đùn gợi tả sắc xanh thẫm của tán hoè lớp lớp, liên tiếp tuôn ra
+ Giương rộng ra
+ Từ phun gợi sự nổi bật, bắt mắt của màu đỏ hoa lựu.
=> Cảnh vật được miêu tả với sức sống mãnh liệt. Như có một cái gì đó thôi thúc bên trong, sức sống như ứa căng, tràn đầy khiến cho màu xanh của lá hòe đùn đùn lên và tán giương lên che rợp, khiến cho cây lựu ở hiên nhà phun ra màu đỏ. Thiên nhiên hiện lên sống động vô cùng.
– Trong bài thơ có các màu sắc: màu xanh của cây hoa hòe, màu đỏ của hoa lựa, hoa sen (có cả mùi thơm của hương sen), tất cả đều dưới ánh nắng chiều màu vàng (lầu tịch dương).
– Bài thơ còn có các âm thanh như tiếng “lao xao” của “chợ cá làng ngư phủ”, tiếng rên rỉ (từ cổ – dắng dỏi) của ve sầu nghe như tiếng đàn (cầm ve) từ trên lầu dưới ánh nắng chiều.
=> Bức tranh mùa hè còn có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Tuy ít nói tới con người nhưng ta vẫn thấy dấu vết, hình bóng con người rất gần gũi: những cây hòe, cây lựu, hồ sen… không phải là những thực vật hoang dã mà có sự tham gia chăm sóc của bàn tay con người. Cho nên, bên cạnh các hình ảnh thiên nhiên ấy còn thấy có cái hiên nhà (Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ), cái ao (trì) (Hồng liên trì đã tiễn mùi hương), và cả ngôi lầu (Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương). Đặc biệt, có rất nhiều âm thanh tiếng người được nghe từ xa (Lao xao chợ cá làng ngư phủ)…
=> Các hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị, hài hòa giữa con người với cảnh vật. Đó đều là những vẻ đẹp bình dị, gần gũi, thân thuộc của quê hương, đất nước con người Việt Nam.
Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
– Nhà thơ tập trung những giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác và cả cảm giác nữa để quan sát cảnh thiên nhiên.
– Thiên nhiên ngày hè hiện lên với những đặc trưng cụ thể bởi những cảm nhận tinh tế: màu xanh của lá cây, màu đỏ của hoa lựu và hương thơm của hoa sen. Mùa hè có tiếng ve kêu…
– Thiên nhiên càng hiện lên cụ thể bao nhiêu, càng đẹp bao nhiêu thì chứng tỏ tâm hồn nhà thơ càng đẹp bấy nhiêu. Một tâm hồn đẹp đẽ nhất định phải xuất phát từ thế giới quan lành mạnh. Bao trùm lên từ tấm lòng yêu nước, yêu đời của Ức Trai.
– Hai câu kết diễn tả khát vọng, mong mỏi da diết của Nguyễn Trãi về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc của nhân dân. Nhà thơ mong mỏi có khúc đàn Nam Phong của vua Thuấn. Mỗi khi khúc đàn ấy gảy lên thì mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn sung sướng no đủ.
+ Lấy chuyện xưa để nói hiện tại, cho thấy tấm lòng yêu nước, thương dân của Nguyễn Trãi. Đó là tấm lòng yêu nước thương dân đến trọn đời.
+ Đồng thời câu thơ cũng có nghĩa: Nếu có đàn Ngu (đàn của vua Nghiêu) sẽ gảy lên một khúc nhạc – ca ngợi cuộc sông thái bình, nhân dân giàu đủ khắp bốn phương. Đây là lòi ngợi ca sự hưng thịnh của triều đại, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở các bậc quân vương luôn quan tâm đến nhân dân.
+ Nhà thơ thể hiện niềm vui, sự ngợi ca, nhưng đồng thòi cũng là niềm mong ước cho đất nước thái bình, lời khuyên các vị vua noi gương Nghiêu, Thuấn “rủ lòng thương yêu và chầm sóc muôn dân, khiến cho chỗ thôn cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận oán cừu” (lời trong một bản tấu của Nguyễn Trãi). Đó cũng chính là tư tưởng “lấy dân làm gốc của ông: “Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước”. Tư tưởng đó bắt nguồn từ lời dạy của Khổng Tử: “Dân vi bản, xã tắc vi quy, quân vi khinh (Dân là gốc, xã tắc là quý, vua là nhẹ).
+ Âm điệu của bài thơ có sự thay đổi: câu kết chỉ có 6 chữ (lục ngôn), khác với những bài kết thúc bằng câu thất ngôn. Câu lục ngôn làm cho âm điệu đang 7 chữ dồn lại trong 6 chữ.
+ Tác dụng của việc kết thúc bằng câu thơ lục ngôn: cảm xúc được dồn nén, nhưng dư âm của nó lại mở ra. Bài thơ hết những âm hưởng chưa hết, đó là nhờ cách kết thúc bằng câu thơ sáu chữ trong một bài thơ thất ngôn.
Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật:
+ Tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước, đặc biệt là tấm lòng ái nước, thương dân của ông.
+ Đồng thời, bài thơ còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, độc đáo và cách kết thúc bài thơ với câu thơ lục ngôn tạo nên sự dồn nén cảm xúc cho toàn bài.