fbpx

Ngữ văn Lớp 10: hãy làm một bài văn dài ”phân tích 4 câu đầu bài thơ nhàn của nguyễn bỉnh khiêm .ko spam ,sao chép , ,”tự làm ” chụp hay ghi trực t

Câu hỏi:
Giúp em bài tập về nhà Ngữ văn lớp 10 câu hỏi như sau: hãy làm một bài văn dài ”phân tích 4 câu đầu bài thơ nhàn của nguyễn bỉnh khiêm .ko spam ,sao chép , ,”tự làm ”
chụp hay ghi trực tiếp cx được
hoàn thành đúng được 50 đ và 5 sao ,1 trả lời hay nhất ,1 lời cảm ơn nhé cảm ơn rất nhiều mk đang cần gấp để thi


Trả lời 2:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:

Vốn là người có học vấn uyên thâm, Nguyễn Bình Khiêm cũng đỗ đạt và làm quan một thời gian nhưng với con người chí khí, nhân nghĩa như ông, chốn quan trường bất công khiến ông chẳng thể nào ở yên được. Chính bởi vậy mà Nguyễn Bình Khiêm đã cao quan về quê lựa chọn cuộc sống ẩn dật, an nhàn. Nguyễn Bình Khiêm giỏi cả chữ Hán và chữ Nôm, ông có thể sáng tác ở cả hai ngôn ngữ. Tập thơ bằng chữ Hán nổi tiếng của ông bà “Bạch Vân am thi tập”. Còn tập thơ bằng chữ Nôm nổi tiếng của ông là “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ Nhàn là một bài thơ được tác giả viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú đường luật.

Ngay từ tựa đền bài thơ đã gợi lên cho người đọc cảnh an nhàn của cuộc sống nơi thôn dã. Quả thực, xuyên suốt bài thơ là giọng điệu tươi vui của một tâm hồn thanh tịnh. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bằng cách sử dụng phép lặp từ “một…một…một”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh bình yên, giản dị tới đơn sơ của một vùng quê nghèo. Số từ một cho ta thấy cái sự một mình của tác giả nhưng nó không hề cô đơn một chút nào. Câu thơ toát lên được cái chất êm đềm vốn có của làng quê Bắc Bộ thời bấy giờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc này hiện lên là một lão nông an nhàn với thú vui tao nhã của con người đó chính là làm vườn và câu cá. Nó khác hẳn với cuộc sống quần là áo lụa chốn quan trường. Khác hẳn với cái cảnh bon chen nơi thành thị. Cuộc sống của ông bây giờ là niềm mơ ước của biết bao nhiêu người nhưng nào có bấy ai dám từ bỏ chức tước để về quê sống cảnh nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Động từ “thơ thẩn” đã tạo nên cho người đọc một cảm giác êm ái và khoan thai. Có thể thấy ông an phận với cuộc sống hiện tại và tìm thấy niềm vui riêng của mình.

Xem thêm:  Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Hai câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn bức họa về lão nông Nguyễn Bình Khiêm. Ông viết:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Sau những năm tháng từ quan về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một nhận định, một lời tuyên ngôn sống của bản thân mình. Ông nhận mình dại khi chọn nơi vắng vẻ còn những người chọn chốn quan trường mới là những kẻ khôn. Nhưng người đọc có thể cảm nhận được cái sự khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ của ông. Ông nói người ta khôn chỉ là một cách khen tinh tế. Khen đấy mà lại như chê. Ở hai câu thơ này, ông tạo ra một tứ thơ đối lập giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao”.  Ông chọn về nơi vắng vẻ là để tránh xa thói đời, để giữ cho vững cái tâm trong sáng, thanh cao của một con người.

Đọc tới hai câu luận tiếp theo, Nguyễn Bình Khiêm tiếp tục cho người đọc thấy được cuộc sống thanh cao, giản đơn của mình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Chỉ với hai câu thơ thôi mà cuộc sống thường ngày của ông được bộc lộ ra hết cả. Mỗi một mùa ông đều có những món ăn riêng. Đó chẳng phải là mâm cao cỗ đầy với sơn hào hải vị như người làm quan thế nhưng những món ăn ấy ở làng quê lúc nào cũng sẵn. Chúng mang đậm hương vị của quê hương và điều đó khiến cho tác giả cảm thấy hài lòng. Mẹ thiên nhiên có lẽ cũng thật ưu ái khi mùa thu cho người măng trúc, mùa đông lại cho người giá. Cuộc sống mà thức ăn lúc nào cũng đủ đầy như vậy thì còn điều gì tuyệt vời hơn nữa?. Câu thơ tiếp theo vẫn là sự hòa hợp của tác giả vào với thiên nhiên. Một cuộc sống thanh tao quả không ai sánh bằng.

Xem thêm:  Về đoạn trích Trao duyên (trong Truyện Kiều của Nguyễn Du).

Hai câu thơ kết, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đúc kết lại cốt cách và suy nghĩ của mình như sau:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Đối với một người tài hoa và trí tuệ hơn người như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì một cuộc sống phú quý là điều không hề khó khăn. Chẳng phải chờ đến chiêm bao mới có được. Đặc biệt, ông đã từng đỗ Trạng nguyên, đã từng có những năm tháng làm quan, tiền bạc đối với ông không phải là vấn đề. Nhưng đó lại không phải là cuộc sống mà ông muốn hướng tới. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “phú quý” chỉ là “tựa chiêm bao”. Nó như một giấc mơ mà khi tàn thì con người sẽ chẳng còn gì cả. Triết lý sống ấy của ông mới thật sâu sắc. Quả thực, với những người yêu thích sự an nhàn như ông thì phú quý hư danh chỉ là thứ vô nghĩa mà thôi.

Qua 8 câu thơ, người đọc nhận thấy được cốt cách của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là người có tấm lòng yêu nước nhưng ông yêu một cách bình lặng của riêng mình.



Trả lời 1:
Gia Sư Hoàng Khang gữi câu trả lời dành cho bạn:

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông đỗ Trạng nguyên, làm quan rồi xin cáo quan về ở ẩn, dựng am Bạch Vân. Ông cũng là nhà thơ lớn của dân tộc với tập thơ chữ Hán “Bạch Vân thi tập” với khoảng 700 bài và tập thơ chữ Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” với khoảng trên 170 bài. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lý, giáo huấn, ngợi ca ý chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu  trong xã hội. “Nhàn” là bài thơ độc đáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong đó, bốn câu đầu của bài để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. 

    “Nhàn” là bài thơ Nôm số 73 trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”. Bài thơ làm theo thể thơ thất ngôn bát cú. Những câu thơ là lời ca ngợi cuộc sống thanh nhàn với muôn ngàn vui thú. Qua đó toát lên vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong bài, hai câu đề và hai câu luận, bốn câu thơ đã tái hiện bức tranh cuộc sống thuần hậu, hòa hợp với thiên nhiên ở am Bạch Vân của thi nhân. Còn hai câu luận và hai câu kết giúp ta hiểu hơn về vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ.

Cuộc sống thuần hậu nơi thôn dã được khắc họa ngay trong hai câu thơ đề của bài:

Một mai, một quốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

        Hiện ngay trước mắt người đọc là Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn như một lão nông thực thụ.  Thi nhân nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối của cuộc sống đậm chất dân quê. . Số từ “một” xuất hiện trong câu thơ gợi cái ít ỏi. Cùng với đó là liệt kê: mai, cuốc, cần câu, nhịp thơ 2/2/3 đã tô đậm sự lựa chọn, tìm về với lối sống bình dị, thuần hậu, vui với thú điền viên nơi thôn dã của thi nhân. Dáng vẻ “thơ thẩn” được phát họa trong câu thơ thứ hai “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Từ láy “Thơ thẩn” giúp ta hình dung vẻ ung dung, bình thản của nhà thơ. Thực ra, sự hiện diện của “mai, quốc, cần câu” chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Đằng sau nghệ thuật liệt kê, ta nhận thấy những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả với những điều bình dị, mộc mạc. Thực tế, nhà thơ đã sẵn sàng, đã vui vì thấy đủ. Chữ “ai” vốn đề nói về người, còn ở đây nhà thơ dùng để nói chính mình.

Vẻ đẹp nhân cách nhà thơ hiện lên trongcâu thơ thực với thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao

         Hai câu thực phân biệt rõ nhà thơ với những “ai”, với những “vui thú nào”. Điệp từ “ta”,“người” cùng phép đối trong hai câu thơ tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ  xưng “Ta” ngạo nghễ, một bên là “người”, một bên là dại của “ta”, một bên là khôn của “người”, một “nơi vắng vẻ” với một “chốn lao xao”. Đằng sau những đối lập ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hình ảnh “Nơi vắng vẻ” được hiểu là nơi không có hoặc có ít người qua lại. Còn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nơi đây được hiểu là thiên nhiên yên tĩnh mang lại cho thi nhân sự thảnh thơi, thoải mái trong tâm hồn. “Chốn lao xao” chính là chốn xô bồ, ồn ào, đông đúc, đủ mọi hạng người. Đó là nơi quan trường danh lợi, bon chen, luồn cúi, hiểm độc. Ẩn dụ “nơi vắng vẻ, chốn lao xao” kết hợp với cách nói ngược “ta dại – người khôn” giúp ta hình dung về thái độ mỉa mai của nhà thơ với cách sống tham lam danh vọng quyền quý. Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động trong việc tìm “nơi vắng vẻ” – không vướng bụi trần. Trạng Trình cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay nhằm phê phán xã hội chạy theo danh lợi. Quan niệm sống: Lánh đục về trong để di dưỡng cho tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đáng trân.

Bốn câu thơ nói riêng, bài thơ nói chung là thành công của tác giả khi sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú. Việc kết hợp hài hòa hình ảnh liệt kê, điệp ngữ cùng điển tích, điển cố giúp  ta có cái nhìn sinh động hơn về cuộc sống, về trí tuệ của thi nhân. Giọng điệu cảm xúc của tác giả cũng góp phần làm sáng lên bức tranh cuộc sống và thể hiện sâu sắc tâm hồn trí tuệ của tác giả. Từ đó mà bạn đọc hiểu hơn về cách sống, cách nghĩ, quan niệm nhàn của thi nhân.

Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm sâu sắc, khẳng định quan điểm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên nhằm giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên danh lợi. Bài thơ bao quát toàn bộ triết lý, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn nhân cách của bậc đại ẩn là tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập triệt để với xã hội phong kiến trên con đường thối nát. Vẻ đẹp cuộc sống và vẻ đẹp nhân cách sáng lòa trong những câu thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm.


Phụ huynh gặp khó khăn cân bằng công việc và dạy con chương trình mới. Hãy để dịch vụ gia sư của chúng tôi giúp bạn giảm bớt áp lực, cung cấp kiến thức chuyên sâu và hỗ trợ con bạn học tập hiệu quả.

Viết một bình luận

Trẻ em cần được trao cơ hội để có thể học tập và phát triển tốt hơn. Giúp con khai phá tiềm năng tư duy và ngôn ngữ ngay hôm nay.

Nhập tên ba (mẹ) để được Trung tâm tư vấn lộ trình học cho bé

    LỘ TRÌNH TIẾNG ANH TOÀN DIỆN - DÀNH CHO CON TỪ 0-10 TUỔI
    NHẬN TƯ VẤN MIỄN PHÍ
    test_ai